Nếu làm vậy thì e bản thân Công ty Quản lý và vỡ hoang tài sản Việt Nam (VAMC) lẫn các ngân hàng chẳng có động lực nào để mua bán nợ

Nếu mở cửa cho nước ngoài tham gia, họ có thể mang được tài sản là tiền, là trí não, sự chuyên nghiệp hóa, giúp tài sản có thể sinh lời và sau đó bán lại cho chúng ta.
Nếu những khoản nợ sau khi xử lý họ không được gì thì cũng chẳng có động lực nào cho họ ráng cả. Bà Nguyễn Thùy Dương là Thạc sỹ Quản trị kinh dinh, Đại học Gloucestershire, Vương quốc Anh. Lúc đó, chúng ta có 4 - 5 thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, Trung Quốc, châu Âu, Nhật Bản.
Hiện bà là Phó tổng giám đốc Dịch vụ tài chính ngân hàng của E&Y Việt Nam (Ernst & Young), chuyên trách về lĩnh vực kiểm toán, tham mưu cho các nhà băng và các tổ chức tài chính tại Việt Nam, Lào. Theo tôi, để các bên mua nhanh, bán nhanh mà hiệu quả thì phải bảo đảm ích lợi cho cả hai phía. Bà Dương có kinh nghiệm chuyên sâu về thị trường tài chính Việt Nam, các vấn đề sáp nhập và các giải pháp thực tế cũng như quản trị rủi ro.
Ở Mỹ, khi đó họ cho vay rất nhiều, rất nhanh và không đích thực có nghĩa vụ với danh mục cho vay của mình. Nếu có tác động ngay, bình thường chỉ ở lĩnh vực xuất khẩu. Như với nợ xấu cũng vậy, để xử lý cần phải có một luồng tiền thực sự chảy vào. Được cái các ngân hàng khi đó vẫn gò được tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Quan trọng hơn, các nhà băng lúc ấy mới bước vào tuổi tăng trưởng "nóng". Trước nhất là phải có sự ổn định tương đối trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Các nhà băng quản lý rủi ro rất kém và đến gần đây, ngân hàng Nhà nước mới chuẩn bị ra thông tư siết chặt hơn.
Còn trong lĩnh vực tài chính nhà băng, chừng độ hội nhập khi đó chưa cao. Còn với các nhà băng Việt Nam, nguồn cơn của những khó khăn là gì? - Cho vay nhanh - vội cộng với không quản lý tốt rủi ro dẫn đến chất lượng tài sản đi xuống, đó là điểm giống nhau.
Nguồn tiền và cơ chế là hai điểm mà bà Nguyễn Thùy Dương cho rằng cần thay đổi để giải quyết những vấn đề hiện tại của hệ thống nhà băng.
Đến nay khi chũm giới đi qua khủng hoảng được 5 năm thì hệ thống ngân hàng Việt Nam lại gặp rất nhiều khó khăn và có thể nói là gần chạm đáy. - Để giải quyết khó khăn của hệ thống nhà băng Việt Nam bây chừ, theo bà nên bắt đầu từ đâu? - Hai điều chúng ta cần phải tạo ra, một là cơ chế, hai là tiền. Ảnh: EY. Khó khăn thực ra đã bắt đầu lộ dần từ năm 2010, 2011, nhà băng vẫn tăng trưởng "nóng" nhưng nhiều vấn đề khác đã xấu đi, nợ dưới chuẩn cũng tăng lên.
Khả năng là vẫn nên khuyến khích các nguồn lực khác dự. Đã làm. - Tại cuộc khủng hoảng 2008, hàng loạt ngân hàng, tên tuổi lớn trên nạm giới đã phá sản.
Để mô hình VAMC hiệu quả, nên tạo cầu tiêu pháp lý để cho phép các giao tiếp mua bán dễ dàng được thực hành. Theo bà vì sao lại có độ trễ như vậy? - Từ năm 2009, khó khăn bắt đầu nổ ra trên toàn nạm giới nhưng sự ảnh hưởng tại Việt Nam chưa nhiều và không trực tiếp.
Còn ở Việt Nam tình trạng này khó xảy ra, theo bà vì sao? - Thực ra không một mực cứ phải để một nhà băng chết đi rồi lập một nhà băng mới trong khi chi phí lại khá lớn.
Để giải quyết vấn đề thứ hai, một gợi ý có thể là nên tạo sân chơi đồng đẳng cho các ngân hàng trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà điều hành đôi khi vẫn chủ quan trong việc đưa ra quyết định và có quá nhiều mệnh lệnh hành chính trong đó. Điều này khác hẳn với Mỹ và cố gắng giới khi ấy. - Chũm giới đã đi qua 5 năm của cuộc khủng hoảng tài chính cụ giới, trong khi đó, với các nhà băng Việt Nam thời khắc này vẫn là “tâm bão”.
Ngoài ra, cần có chế độ ưu đãi về thuế một mực để các bên thấy có động lực tham gia. Thanh Thanh Lan. Còn nếu chỉ phụ thuộc vào các nguồn vốn đi vay thì sẽ phải đối mặt nhiều điều kiện cũng như những rủi ro về mặt chính sách.
Đây có thể là một quan điểm mà tôi nghĩ nhà băng Nhà nước cũng có lý của họ. Hơn nữa, nay nhà băng quốc gia hạn chế mở phòng giao dịch, ngừng cấp phép ngân hàng, rõ ràng việc bỏ tiền mua một nhà băng yếu kém để làm nó tốt hơn sẽ kinh tế hơn rất nhiều.
Như vậy không phải quá tệ. Còn ở Việt Nam, một phần là do ảnh hưởng nền kinh tế vĩ mô cộng với rủi ro về đạo đức không được kiểm soát chặt chẽ. - Một trong những lý do mà người ta nói nhiều nhất về sự sụp đổ của các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng 2008 là vấn đề cho vay dưới chuẩn.