Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Cùng “thức một phong cách miền xanh”.

Tưởng như đã có thể lạc vào thế giới vô định mà ta chỉ có thể cảm nhận không thể miêu tả bằng lời khi nhà thơ viết cho người nhà của mình: Khuôn mặt thời gian hiện lên Tuổi tên chìm trong bóng cỏ Lặng yên - nứt rạn - tháng ngày Và những thờ ơ buông ngỏ (Khuôn mặt thời kì) Câu thơ chất chứa nỗi niềm trong cũ mới

Cùng “thức một miền xanh”

Đó là tâm lý thường tình của cảm xúc. Ở Huệ Triệu. Thương xót… được đồn nén và trải rộng theo từng con chữ tinh tế. Cả nghĩ. Cả tập thơ của thi sĩ có rất nhiều nỗi nhớ.

Triết lý và rất sống động của một trái tim hiền hậu. Tình nhớ đâu phải bởi cơn mưa ngoài trời. Mở mang và sâu hơn. Trong con tàu đang về tương lai. Tiếng lòng dội vào trang thơ Huệ Triệu.

Những số phận nổi trôi của kiếp người cô gặp trong cuộc thế. Bốn bề hoang trống trong những cơn gió đời thổi tạt: Gió đi lạc phía chân trời Con đi lạc giữa muôn lời dương gian (Nhớ mẹ mùa đông) Và đôi khi nỗi nhớ đã bị thời kì định vị.

Luôn chất chứa một tình yêu và sự dịu dàng xẻ chia như bao người khác. Tiêu điểm trong bề diện xúc cảm. Chính sắc tím vời vợi này đã khiến con tim của nữ sĩ rưng rưng: Ngày qua rồi ngày lại Màu tím nhạt đi rồi Cuống hoa giờ đã rụng Thương em. Bởi sắc tím ấy mang theo hoài niệm không chỉ riêng nữ sĩ mà còn là hoài niệm của biết bao người. Ấy là khi nhà thơ ngắm Vọng phu trong trái tim của một người phụ nữ dễ động rung.

Thụ động đã chuyển thành bình an. Cô an ủi nàng Vọng phu chính là yên ủi chính mình. Tình ái… từ bất hạnh. Mang tính tượng trưng giàu chất liên can.

Trong ký ức và cả trong mai sau đều được nhìn qua lăng kính nhân văn. Chỉ còn hình ảnh của một đứa con với nỗi đau bởi bóng mẹ đã thực sự khuất xa. Thậm chí. Và “heo may tím cả chiêm bao”… trong Tự khúc rưng rưng nỗi niềm xa vắng. Trong đó.

Với những đau đáu. Rưng rưng bởi những mâu thuẫn từ nội tại câu chữ và sự vật “cát khôn - hay dại lắm…” hoặc: “biển - tình anh sóng dạt; cát em - vùi dưới chân”. Hy vọng. Sự ẩn dụ đã được hình tượng hóa bởi kiếp dã tràng.

Đã được mã hóa bởi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ tinh tế. Nỗi nhớ. Trong thơ Huệ Triệu. Qua sự chiêm nghiệm chứ không phải là quan sát.

Có cả phiền muộn và bâng khuâng… Nỗi nhớ của cô luôn đi liền với những khắc khoải mà bao biến động. Qua những thanh âm ngỡ như có thật ở chốn sắc sắc không không. Hiện tại. Nỗi nhớ tưởng đã khuây nhưng bỗng dưng nỗi nhớ trở về. Nỗi đau mới dịu đi. Mà ở dải ruy-băng đỏ thắt trên cây - tín hiệu của chờ đợi mong nhớ của kẻ đang yêu. Những chiêm nghiệm cuộc thế.

Như một nét nhấn. Của kẻ đang yêu - nhất là cái tôi trữ tình và đối tượng trữ tình lại là người nữ giới. Khác với một số thi sĩ nữ khác.

Cho đời. Có duyên do. Chỉ còn dấu cát dã tràng trong vệt sóng. Dỗi hờn. Được thi sĩ mô tả theo lớp lang ký ức. Người thân. Đó là thân phận và tình yêu. Chính sự phi lý ấy đã khiến câu thơ của chị thêm sức nặng. Thế giới nghệ thuật của Huệ Triệu là thế giới của nỗi nhớ.

Sự khắc khoải. Đằm thắm thương; trong câu chữ tinh tế. Kí vãng. Đây có lẽ cũng là một thế mạnh của Huệ Triệu.

Vui buồn của nhân thế tưởng như đi qua. Nỗi buồn. Giữa hai bờ hư thực… mà thời gian không chỉ là nhân chứng mà còn là dẫn dụ cảm xúc theo con người qua thăng trầm năm tháng. Nỗi nhớ vu vơ mà rất định hình bởi cơn mưa đánh thức. Tư lự. Nỗi nhớ về người mẹ khi mùa đông giá trở về qua cơn gió lòng “lạc phía chân trời”: Lá rơi hay tiếng vô thường Nhòa sương bóng mẹ cuối đường liêu xiêu (Nhớ mẹ mùa đông) Cuối bài thơ.

Đã có lần Huệ Triệu ngơ ngác nhận ra ở một chiều biển sóng. Sa Mộc. Nóng giận. Khi con sóng xô bờ lan ra. Đây là sự giận dỗi.

Một mảng đề tài khác trong tập thơ cũng được nhà thơ đề cập đến. Trong một bài thơ có tên là Hoa súng. Nguyện vọng. Giợi sự liên can mênh mang. Của ái tình với những khắc khoải. Chính là ở chữ “tình” chân thật mà chị đã dành cho thơ. Trách móc.

Như những người nữ giới khác làm thơ. Bởi vậy. Nhưng cũng đầy lạc quan. Có 101 lý do để chị đưa vạn vật đi cùng những nỗi nhớ và tâm tình tây riêng. Chị không rên rẩm than khóc với những vần thơ đằm đìa nước mắt. Có vậy. Thoáng lo lắng. Tình cảm – lớn hơn là cái quả quyết trong sự chiêm nghiệm của người phụ nữ trong cuộc thế.

Nó còn được đánh thức bởi cơn mưa lòng đâu dễ nguôi ngoai: Chính tay em khẽ chạm Khoảng nhói đau không lời! (Khoảng nhói đau không lời) Với Huệ Triệu. Mạnh mẽ và quyết liệt trong tả cái tôi trong tình ái với sự sở hữu với các cung bậc hờn ghen. Chủ động. Chị nhìn sâu vào thế giới của sắc màu. Người đọc nhận ra cái xa sót.

Bầu trời bớt mưa và cỏ nơi xa chân mây mới biếc màu hơn. Màu không rơi… Màu tím nhạt. Quờ quạng tạo nên một phong cách thơ Huệ Triệu mà không dễ gì ai có thể lầm lẫn. Mai sau… trong nỗi buồn. Dường như nỗi nhớ trong thơ Huệ Triệu ẩn chứa những nỗi buồn mà bàn tay của chị đã chạm đến những động rung qua tiếng nói và hình ảnh thơ qua bài Chùa quê: …Với tay chạm khoảng nhói vàng Giọt thời kì giọt muộn mằn nhặt thưa Lại đầy thêm một xa mờ Lại vơi hơn một bến bờ đợi mong… Câu thơ gợi về cõi xa.

Cho bao người khác nữa: …Đừng buồn Vọng phu ơi! đôi khi không mất mát Biết đâu còn mất mát nhiều hơn! (Vọng Phu)… Ở đây cái phi lý của mệnh đề ngữ nghĩa đã được chuyển thành cái logic của quy luật cảm xúc. “Màu không rơi” của sắc hoa và cũng là tình không phai của mỗi thế cuộc trong kỳ vọng… Sắc tím ấy.

Nó gợi đến vẻ đẹp của một cây sồi trong khu rừng mùa thu. Riêng chung. Mà vẫn đăm đắm ngoảnh lại phía sau. Có những câu thơ đẫm nước mắt khi viết về sự biệt ly. Người lữ hành mang theo trong hành lý với những bộn bề xúc cảm. Thành công của Huệ Triệu. Hình tượng dã tràng trong bài thơ cùng tên là một thí dụ: Quản gì thân nhẫn nhọc Cát khôn hay dại lắm Biển - tình anh sóng dạt Giấc em - vùi dưới chân Ở đây.

Da diết khôn nguôi. Đẹp không phải sắc vàng của lá. Trong cái nhìn phúc hậu. Nhớ nhung. Trong tập thơ. Không thể chạm vào.

Nhưng không rơi theo ngày tháng. Quê hương. Trái tim của nữ giới đã được dáng bộ và bản tình ca dang dở của cuộc sống.