Chủ nhà phải ký giao kèo với người giúp việc Đối tượng vận dụng của Nghị định này gồm: cần lao là người GVGĐ theo quy định tại Khoản 1, Điều 179 của Bộ luật lao động; NSDLĐ có thuê mướn, dùng cần lao là người GVGĐ theo hợp đồng cần lao; cơ quan, tổ chức và cá nhân có can hệ đến việc thực hiện các quy định tại Nghị định này. Nghị định này không ứng dụng đối với cần lao Việt Nam làm GVGĐ ở nước ngoài. Từ ngày 25-5-2014, khi có nhu cầu, NLĐ và NSDLĐ phải có ký kết hợp đồng bằng văn bản cụ thể. Trong kì hạn 10 ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng cần lao, NSDLĐ có trách nhiệm thông báo với UBND xã, phường, thị trấn nơi NLĐ làm việc về việc dùng cần lao là người GVGĐ. Nội dung giao kèo gồm có quy định về điều kiện ăn, ở của NLĐ (nếu có); tiền tàu xe về nơi hàm khi kết thúc hợp đồng lao động đúng hạn; thời kì và mức hoài tương trợ để NLĐ học văn hóa, học nghề (nếu có)…
Liên tưởng tới trách nhiệm đền bù do NLĐ gây ra: Mức khấu trừ lương hằng tháng do hai bên thỏa thuận, nhưng không quá 30% mức lương hằng tháng đối với NLĐ không sống tại gia đình NSDLĐ; không quá 60% mức lương còn lại sau khi trừ tổn phí tiền ăn, ở hằng tháng của NLĐ (nếu có) đối với NLĐ sống tại gia đình NSDLĐ. Về chế độ lương, thưởng: Mức lương hướng do hai bên thỏa thuận và ghi trong hiệp đồng lao động. Mức lương lậu (bao gồm cả tổn phí ăn, ở của NLĐ sống tại gia đình NSDLĐ (nếu có) không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định. NSDLĐ và NLĐ thỏa thuận mức chi phí ăn, ở hằng tháng của NLĐ (nếu có) nhưng không vượt quá 50% mức lương lậu trong giao kèo cần lao… Để bảo đảm lợi quyền cho NLĐ, Nghị định nêu rõ: Mỗi tuần NLĐ được nghỉ
Khi xảy ra tranh chấp cần lao giữa NSDLĐ và NLĐ hoặc giữa NLĐ với thành viên trong hộ gia đình, NSDLĐ và NLĐ cùng nhau thương lượng, giải quyết. Trường hợp một trong hai bên không thống nhất thì có thể đề nghị hòa giải viên cần lao hoặc tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân chủ nghĩa theo quy định tại Điều 201 của Bộ luật cần lao. Đáng chú ý, Nghị định quy định rõ bổn phận của UBND xã, phường, thị trấn tương trợ giải quyết tranh chấp cần lao khi NLĐ hoặc NSDLĐ yêu cầu; hấp thu, giải quyết tố cáo của NLĐ khi NSDLĐ có hành vi bạc đãi, quậy phá dục tình, cưỡng dâm lao động hoặc có những hành vi khác vi phạm luật pháp; tổng hợp, bẩm tình hình thực hành pháp luật về cần lao đối với cần lao là người giúp việc trên địa bàn. Động thái bảo vệ cần lao nữ Là một trong những tổ chức có nhiều nghiên cứu cũng như đề xuất pháp lý liên tưởng tới cần lao giúp việc, bà Lê Thị Nga, Phó giám đốc tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam khẳng định: bây giờ, cả nước có khoảng hơn 200.000 cần lao GVGĐ, trong đó có tới 98,7% số người GVGĐ tại các thành phố lớn là nữ, khoảng 1/3 số cần lao này góa chồng, ly hôn hoặc không có chồng con. Do đó, việc ban hành Nghị định can dự tới lĩnh vực này chính là động thái bảo vệ lao động nữ, bên cạnh đó còn là bước tiến mới của quốc gia xác nhận nghề GVGĐ giống như loại hình cần lao khác. Cái “được” lớn nhất là sẽ giúp NSDLĐ cũng như NLĐ có cái nhìn đúng hơn về nghề GVGĐ. Từ đó dần dần sẽ hướng tới sự chuyên nghiệp hơn đối với nghề giúp việc. Song, bà Lê Thị Nga cũng cho rằng, để làm được điều đó thì cần chóng vánh có các văn bản chỉ dẫn để làm cơ sở pháp lý thực hành những quy định tại nghị định. Đồng thời, cần phải tuyên truyền để NSDLĐ cũng như NLĐ hiểu rõ hơn về quyền và trách nhiệm của mình khi thực hiện theo đúng pháp luật. Có thể nói, những quy định trong Nghị định 27/2014/NĐ-CP là bước đột phá lớn về pháp lý nhằm đảm bảo lợi quyền tốt hơn cho lao động giúp việc cũng như NSDLĐ. Đây chính là cơ sở để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên liên quan; Đồng thời góp phần tạo ra một đội ngũ giúp việc lành nghề, tiến tới xuất khẩu cần lao trong lĩnh vực này ra các thị trường trên thế giới./. Bài và ảnh: LAN HƯƠNG |