Láng giềng ai cũng nể trọng
Từ suy nghĩ ấy. Ông lại gặp thầy tướng số đêm qua. Ông chung sống với gia đình vui cảnh điền viên chứ không ra làm cho Pháp.Người dân thường gọi bằng ngữ danh quen thuộc. Tay bắt mặt mừng. Khắp người bụi bặm vì đi đường xa. Ông xuất dương sang Pháp du học. Lời qua tiếng lại xã giao khiến họ cảm mến nên trả tiền giúp. Những năm tháng xuất dương du học Chuyến đò ngang đưa chúng tôi đến “thánh địa” “vang bóng một thời” của ông Đạo Dừa.
Gia đình không gửi tiền sang được. “Lúc đó Cậu Hai nghe người ta đồn ở Nha Trang có một vị “cao nhân đắc đạo” nên tìm đến thụ giáo. Chuyến về cũng như chuyến đi đều bằng tàu thủy. Vứt bỏ quờ vật chất phù du. Bạn bè đến đón. Hai thân muốn cậu trở nên một người hiền tài. Bà Nguyễn Thị Út (83 tuổi). Tại đây. Rồi cậu kết bạn với họ. “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước” nhưng chung cuộc.
Năm 1935. Nhưng lòng hiếu khách của trụ trì chùa đã giữ chân cậu ở lại. Mẹ là bà Lê Thị Sen. Nhưng ông không tự cao mà trái lại rất khiêm nhượng. Người nhà. Từ miệt Bến Tre xa xôi. Vì sao con người cứ mài miệt đắm trong danh lợi. Cậu theo đạo trước là tìm chỗ dựa tinh thần quên đi thời cục nhiễu nhương.
Ông nghĩ: “Nên dứt bỏ càng sớm càng tốt. Nhưng ông vẫn tĩnh tâm. Bà Út cho biết.
Ông gặp một ông thầy tướng số và xin gieo quẻ. Ông có ý nghĩ kỳ lạ “tầm sư học đạo”. Cậu thường nói chắc lúc đó. Bố đức” giúp người nghèo khổ. Nhiều biến động. Người ta đến làm quen. Hai thân ra công khuyên giải can ngăn. Ông tốt nghiệp ngành hóa học tại trường Cao đẳng Roeun (thuộc tỉnh Seine– Maritime.
Một số tăng ni tỏ ra coi thường. Chuyện kỳ lạ trước ngày “tầm đạo” Cuộc sống gia đình phú quý đang trôi trong êm ả dù rằng bên ngoài cuộc đời đang chiến loạn. Lấy “giả” làm “chân” rồi rốt cuộc cũng đến hồi lụn bại. Cậu Hai Nguyễn Thành Nam nên duyên chồng vợ với bà Lộ Thị Nga. Cậu mới vượt qua được những năm tháng khốn khó ở xứ người”. Tàu cập bến Châu Đốc. Gia đình ông có dịp vui như trẩy hội.
Ông Đạo Dừa thời trẻ trai lừng danh hào hoa. Trước sự phản ứng kịch liệt của gia đình. Giết hại lẫn nhau. Từ hải cảng Marseille. Bà là con của một gia đình gia giáo.
Mượn cửa thiền trốn nợ trần ai”. Bà Út chia sẻ. Ông mừng như “cá gặp nước”. Giày đạp. Xem ông hốt nhiên đổi thay. Bỗng một ngày kia. Nhưng bản chất. Ông Đạo Dừa tên thật là Nguyễn Thành Nam.
Bà Út kể. Họ thấy cậu ăn mặc lôi thôi. Nghị lực. Sau là để giúp đời”.
Ông chia tay thầy tướng số rồi tìm đến chùa An Sơn. Cha là Nguyễn Thành Trúc (có tài liệu ghi là Phúc) làm Chánh tổng dưới thời Pháp (từ năm 1940 đến 1944). Bà Út chia sẻ thêm: “Từ lúc về nước.
Nối lo công danh sự nghiệp để tạo tiếng tăm khiến cõi trần nể phục. Thăm hỏi. “Những ngày Cậu Hai ở lại chùa. Trọng nghĩa. Ai mà nghĩ cậu đi tu”. Bà Út kể lại. Khoa học tiến bộ cũng từ trí thông minh của con người mà ra. Pháp) lúc bấy giờ và đại hồi về nước.
Mọi người không còn gọi ông bằng Cậu Hai nữa mà gọi bằng “Bác Vật Nam” từ Pháp về. Cùng lúc tàu Thuận Hà chuẩn bị nhổ neo đi về An Giang. Bà làm tròn bổn phận dâu con. “Lý luận vững chắc của Cậu Hai khiến từ đó trong gia đình không ai còn thắc mắc chuyện cậu xuất gia.
Trước phụng sự quê hương sau kiến tạo cuộc sống riêng để gia tộc nở mặt.
Giữ lấy câu “xuất giá tòng phu”. Đường tương lai của ông Đạo Dừa mở ra với nhiều hướng đi. Cậu nán lại nhân đó dò la các vị tăng ni trong chùa để xem họ có phải là bậc chân tu chân chính hay chỉ là những kẻ “ẩn dương nương phật”.
Song đường ông vốn đôn hậu. Cậu Hai Nguyễn Thành Nam là con trưởng trong gia đình. Quờ người trên tàu từ thuyền trưởng. Vinh Điền Kỳ tới: Con đường khổ hạnh lên non “tầm đạo”.
Không hề tỏ ra lo sợ. Tỉnh An Giang) để “tầm đạo”. Cậu Hai làm bộ một người “nức” tiếng ăn chơi.
Một thời kì sau ông lập gia đình”. Bấy lâu. Sống trong thị phi. Tàu chạy gần một tháng mới đến Bến Nhà Rồng.
Ông ấy còn cho biết đã ngồi chờ ở bến tàu ba ngày để xem quẻ cho Cậu Hai. Hiếu thảo với gia đình và hôm mai chia sẻ buồn vui với chồng. “Sau sáu năm theo học ở Sài Gòn. Hai người tháp tùng trong suốt cuộc hành trình.
Sau bao ngày giằng co suy xét
Năm 1928. Rồi tình hình bên nước nhà bất ổn. Cậu đi dạo. Vợ chồng Cậu Hai chung sống rất hạnh phúc và hạ sinh một người con gái tên Nguyễn Thị Loan (tự là Khiêm). Cái nào hơn?”. Những lúc hết tiền.
Nhưng khi gặp mặt. Những ngày đêm lênh trên chuyến tàu nhát có lúc tàu gặp sóng to gió lớn. Cậu Hai được gia đình cho đi du học ở Pháp. Bà Út tiếp: “Lúc Cậu Hai còn sống. Dám làm). Theo cậu thì ông thầy đó chỉ nhận lời bói cho người có duyên với ông. Có mấy ai còn nghĩ đến con đường đạo đức?”. Bói xong. Cậu ngồi gần mấy người theo đạo Hồi Giáo. Tỉnh Kiến Hòa) nay là huyện Châu Thành (tỉnh Bến Tre).
Vị cao nhân ấy không như lời đồn thổi. Thấy họ đối đãi lợt lạt. Bênh vực thứ dân nên người trong thôn.
Cậu Hai thất vọng trở về lòng buồn rười rượi”. “Cậu Hai thường kể cho chúng tôi nghe. Quận Trúc Giang.
Một là con đường đời. Như bao người lớn lên trong gia đình sung túc. Khinh tài hay viện trợ người khác mà không cần nghĩ đến sự trả ơn. Sống xa hoa như thường việc gì xảy ra. Khi vô nhà hàng. Ông vốn thông minh và là người giàu ý chí.
Ông bắt xe lôi vào vùng Bảy Núi. Chuyến tàu Thuận Hà lần đó ông đi là chuyến trước hết thông bến. Tàu rời bến và rẽ sóng trùng khơi hướng về quê hương. Dám nghĩ. Ông thầy tướng gieo quẻ nhân duyên Trên tàu. Cũng trên chuyến xe ấy.
Lắm lúc không có lấy một xu dính túi. Vào đến Bảy Núi. Phong nhã. Thời trẻ trai. Ông được ba má thương yêu và cho ăn học đến nơi. Cậu là người bền chí. Ông quyết định tìm một lối đi để giải thoát cho xác thân trần ai. Cậu sinh ra chán nản muốn bỏ về.
So sánh giữa khoa học và đạo đức. Còn nếu ngược lại thì nó sẽ trở thành một công cụ giết người mau lẹ. Thủy thủ cho đến hành khách đều ra công ứng phó và chuẩn bị tư thế hứng chịu những trận cuồng phong thi nhau ập xuống. Ngồi một mình ở ghế đá công viên. Một số người xung quanh cười ồ lên vì cho rằng ông thầy bói nói sai.
Nghe vậy. Thuở thiếu thời. Ông lâm vào cảnh điêu đứng. Thuở ấy. Hai là đi vào con đường đạo. Ấp rất quý mến. Ông là con của một bá hộ chân chính và thường gọi bằng thầy “Maitre – Nam”. Đua tranh cho thỏa cơn tham. Nhung lụa và lừng danh hào hoa phong nhã.
Trên đất Pháp. Ông sống trong cảnh sang giàu. Tuyến đường thủy từ Mỹ Tho xuôi về các tỉnh miền Tây vốn không đảm bảo an ninh nên ghe thuyền không dám đi lại. Những năm tháng bôn ba nơi phồn hoa đất khách đã mang đến trong thế cục Cậu Hai Nguyễn Thành Nam nhiều điều thích thú có cả sướng vui lẫn thống khổ.
Ông cũng quyết định chọn cho mình con đường đạo. Không tiền nhưng ông vẫn tiếp đi chơi. Nếu dùng đúng chỗ thì ý nghĩa sao. Coi tiền tài danh vọng trên đời như mây khói lướt qua rồi chóng tan. Lúc buồn. Giáo đồ độc nhất vô nhị của “bổn đạo” bây chừ còn sinh sống ở Cồn Phụng (huyện Châu Thành. Tỉnh Bến Tre) kể cho chúng tôi nghe những chuyện ly kỳ về con người kỳ bí này. Ông nói láo gia đình đi Gò Công thăm họ hàng bên vợ và ở lại đó ít lâu.
Về nhà. Ông khoan thai giảng nghĩa: “Con người mấy ai tồn tại đến trăm năm. Cậu hoạch định đạo và đời thành hai hướng rõ rệt. Một khi đã quyết thì khó lòng lay chuyển. Ông đến Mỹ Tho. Hết người này đến người kia giúp đỡ. Chân dung người vợ hiền của ông Đạo Dừa Từ Pháp về quê hương được hai năm. Bởi ông quan niệm rằng “con người đều có số mạng”.
Trong mắt bạn bè. Đến chốn. Ông thường kể về chuyện này lắm. Ông tìm đến vùng Bảy Núi (huyện Châu Đốc. Ông lặn lội ra tận Nha Trang tìm đường hướng đạo. Mời cậu về nhà chơi. Cậu Hai (SN 1910) tại làng Phước Thạnh (tổng An Hòa. Gia đình biết chuyện vô cùng lo lắng trước biểu lộ kỳ lạ của ông.
Bà Út chia sẻ. Nở mày”. Ông sinh trưởng trong gia đình no đủ. Rằm tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1942). Một số bạn bè cùng trang lứa tôn ông là “dân cậu” (ý chỉ người dám ăn. Cồn Phụng từng là “thánh địa” lưu dấu ông Đạo Dừa. Bộ dạng Cậu Hai ngày đó trông bảnh bao. Ông nghĩ đây là cơ duyên đã định ông về với đạo. Dám nói. Ông vào chùa lễ phật và được trụ trì ngỏ lời mời ở lại vãn cảnh núi non ít hôm.
Ông ấy có lời khen cậu vì biết tìm chốn non xanh học đạo. Thường “thi ơn. Sau một đêm.