Đó là nghệ thuật giao dịch, nghệ thuật ứng xử tâm lý và hành vi giữa con người với con người
“Không có bệnh mà chỉ có người bệnh” , đó là nguyên tắc cơ bản của y khoa để nhấn mạnh đối với một loại bệnh, phải dựa trên tình trạng của một người cụ thể bị mắc bệnh để điều trị, không có biện pháp điều trị chung cho cả thảy mọi người.
Mặc dầu con người vốn “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng đó mới chỉ là sự chịu đựng chứ chưa phải là ý thức cống hiến, chưa phải là cách mưu cầu hạnh phúc bằng sự “cho đi” mà không đợi “nhận về” như cổ nhân đã dạy: “Thi ân bất cầu báo”.
Bấy lâu, chữ viết nào mà không đọc nổi người ta vẫn gọi là “chữ thầy thuốc”. Chỉ có với những thầy thuốc như vậy thì ngành y mới có thể làm tròn thiên chức cao quý “chăm lo sức khỏe” cho toàn tầng lớp và tầng lớp mới có thể yên lòng với những người “từ mẫu” của mình.
Nhưng đó chỉ là bào chữa. Cũng chính điều đó đã làm nên sự thơm thảo, phần cao quý của ngành y, như lời Hippocrates: “Nếu tôi làm trọn lời thề này và không có gì vi phạm, tôi sẽ được hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự trọng mãi mãi của mọi người”. Và đúng như lời của nhà ngoại khoa lỗi lạc người Đức, Theodor Billroth (1829-1894): “Chỉ có người có tấm lòng cao cả mới trở thành một bác sĩ tài năng” (Seulement un home de grand ceur peut être un bon médecin).
Như tư tưởng của Hippocrates, ở đây lại nổi lên những “thuộc tính” cần và đủ của người bác sĩ. Lòng tự trọng nghề ấy đã được hình thành từ khi họ mới bước chân vào “trường thuốc”. Chính bởi thế mà mọi mô hình, mọi khuôn thước theo kiểu duy lý của y khoa đều chẳng thể thu được kết quả đại trà cho cộng đồng người.
Họ đau vày nó xúc phạm đến thiên chức tầng lớp của người thầy thuốc, vì nó làm giảm sút đi những quang vinh cao quý của nghề nghiệp. Nếu người bác sĩ là một nghệ sĩ bởi vì khoa học của họ là một nghệ thuật thì họ phải là một hiền nhân, vày tâm hồn của họ là một đức tin và nghề nghiệp của họ là một sứ mệnh” (Hồ Đắc Di, Vinh và lụy của ngành y, 1949). Các bác sĩ tham gia khám từ thiện cho người dân trong cộng đồng.
Rồi cho đến khi ra trường hành nghề, những tri thức khoa học thiên nhiên ngoài việc giúp cho mỗi người có tư duy “kiểu toán” như người ta vẫn nói, chỉ còn cần đến khi tiến hành những nghiên cứu khoa học và trong tổng kết hoạt động chuyên môn. Đó cũng chính là tinh thần chủ đạo trong lời dạy của Bác Hồ: “Lương y kiêm từ mẫu”. Từ đó, càng thấu hiểu một nguyên lý rất căn bản của y học là chữa bệnh không chỉ chữa về thể chất mà cần phải chữa cả tinh thần.
Để làm được như vậy, người hành nghề bác sĩ phải có nhiều tiết hạnh mà trong đó tình thương yêu, lòng có nhân là cội nguồn của đức hy sinh. Dù nhìn ra tầng lớp thấy ai cũng vậy nên cũng được an ủi một phần, nhưng thực ra họ cũng đau lòng lắm. , Sinh viên y khoa bắt đầu những năm tiếp theo với những môn học y khoa cơ sở và y khoa lâm sàng mang tính biểu hiện và hướng dẫn với hàng núi con chữ chỉ có thể đọc và học để trêu.
Hồ hết hoạt động thực tế nghề y là quá trình giao dịch ứng xử giữa thầy thuốc với bệnh nhân, là các hoạt động từng lớp để chăm lo sức khỏe và phòng bệnh cho cộng đồng. Những tội của ngành y hôm nay có phải là do thiếu vắng những điều như thế. Ta đã thấy không ít người làm nghề toán mà tâm hồn văn chương lai láng
Vậy thì đâu phải chỉ có khoa học tự nhiên mới cần cho những người bác sĩ ngày mai, còn văn chương (và khoa học xã hội nói chung) thì không cần đến.
Về mặt này, y khoa thật gần với văn chương, như người ta thường nói: “văn chương là nhân học” (Maxim Gorki). Nhưng tạo hóa cũng thật là đánh đố khi tạo ra tình trạng “không ai giống ai” về mặt hình hài thể xác trong quơ loài người. Về chương trình học thì ngành y ở các nước Âu Mỹ cũng như ở nước ta là dài nhất trong các ngành đào tạo và cũng thiên về “chữ” nhiều hơn “số”.
Rồi nữa, chuyện “phong bì” trong ngành y tế cũng là một minh họa sinh động cho thực tiễn này. Và, nhờ vậy lòng trắc ẩn, tình xót thương không bao giờ vơi giảm trong những năm tháng hành nghề của người thầy thuốc. Và phép chữa bệnh không chỉ áp dụng cho phần thân xác mà còn phải cho, thậm chí là trước hết cho sức khỏe phần tâm hồn.
Hồ Đắc Di đã viết: “. 500 năm, những điều mấu chốt trong tư tưởng hành nghề y của Hippocrates vẫn tỏa sáng đến ngày nay: y khoa là khoa học về con người, cả thể chất và tinh thần.
Tập thơ Từ đá vắt ra của TTƯT. Hẳn nhiên, không ai ngây thơ đơn giản nghĩ rằng, người học toán thì khô mà người học văn thì lãng mạn. Đó có phải là do thiếu đoàn luyện chữ nghĩa và thiếu văn chương để nuôi dưỡng một tâm hồn nhạy cảm, vị tha? Chúng ta cũng nên nhớ rằng: “Người bác sĩ chỉ tỏ ra xứng đáng với nghề cao quý của mình khi biết phối hợp khoa học với văn hóa.
Thật đáng buồn nhưng đó là thực tại đang diễn ra. Viết vội, viết láu khác với viết xấu. Người bác sĩ đến với bệnh nhân là động thái của một con người đang đến với một con người.
Nhưng tình thương và lòng nhân ái không phải từ trên trời rơi xuống. Ngay từ thời xa xưa cách đây gần 2. Nhưng nếu thiếu “suối nguồn văn chương” thì những hạt giống tâm hồn sẽ thiếu đất gieo và khó đâm chồi nảy lộc, nở hoa kết trái nhân ái, thương tình. Vì sao ở đâu đó sự giao tiếp của thầy thuốc với bệnh nhân thiếu đi sự “lắng nghe và thấu hiểu”? vì sao có những “từ mẫu” áo trắng không còn là những “mẹ hiền”.
Thực ra thì không phải vậy. Nếu xét cả phần tâm hồn, cả mặt ý thức nữa thì sự khác biệt giữa những cá thể người là khôn cùng, bất tận. Với mỗi một người thầy thuốc, những tư tưởng chủ đạo trong Lời thề y khoa (Hippocratic Oath) được truyền dạy từ cha đẻ của ngành y, Hippocrates (460 - 370 trước Công nguyên), vẫn thấm đẫm tính nhân văn và là kim chỉ nam cho y đức (medical ethics)
Ảnh: Trần Minh Ai cũng biết ngành y là một ngành khoa học, nhưng hoạt động thực tế ngành y là giao thoa giữa nghệ thuật và khoa học. Sau một hai năm đầu học khoa học căn bản với những toán, lý, hóa, sinh. Tình thật mà nói, người bác sĩ nhận cái “phong bì” từ tay của người bệnh cũng chẳng sung sướng gì.
”. Ngay từ năm 1949, trong bài Vinh và lụy của ngành y, GS. BS. Cả tầng lớp ca cẩm lên án nhưng ai cũng biết ngành y không phải là một ốc đảo giữa từng lớp và các thầy thuốc không phải là những Robinson Cruso giữa hoang đảo đó nên trong điều kiện xã hội hiện thời, “phong bì” còn là một “vấn nạn” không riêng gì của ngành y tế.
Chữ xấu, câu cú lích kích, nói năng cộc lốc, tính tình cáu bẳn, thiếu đồng cảm sẻ chia với người bệnh, là những thói tật thường đi với nhau và có ở nể ít người thầy thuốc. Cũng từ hàng trăm năm trước, người ta đã đưa ra một định nghĩa đơn giản về sức khỏe là “một tâm hồn tinh khiết trong một thân lành mạnh” (âme saine dans un corps sain).
Nhà thơ Trần Sĩ Tuấn. Tác phẩm Nhớ đến một người của BS. Cũng một phần vì bận việc, thiếu thời kì (có nhiều nơi khám bệnh chỉ có 1 - 2 phút cho mỗi bệnh nhân) nên thầy thuốc kê toa viết vội, viết láu đến nỗi chính mình đọc cũng không ra.
Tuy vậy, trong bất cứ tình cảnh nào, người thầy thuốc cũng cần phải có lương tâm, bởi hơn bất cứ ngành nào khác, trong ngành y “Khoa học mà không có lương tâm chỉ là sự sa đọa của tâm hồn” (Francois Rabelais, 1494 - 1553). Nhà nghệ sĩ trước tiên là một người dễ cảm xúc, người thầy thuốc chân chính cũng vậy, giá trị của họ cũng như của họa sĩ hay nhạc sĩ đều tỷ lệ thuận với sự nhạy cảm của họ.
Và để nghề thăng hoa, để hành nghề hạnh phúc, người bác sĩ còn phải có một tâm hồn lãng mạn và một trái tim nhân từ dẫn đường. Đỗ Hồng Ngọc là tập ký chân dung các văn nghệ sĩ. Hãy xét một chuyện nhỏ thôi là chữ viết. Phú Xuân. Mà “nét chữ là nết người” (Phạm Văn Đồng), viết ẩu cũng phần nào phản ánh tính cẩu thả của con người. Vị, văn chương nghệ thuật chân chính có tác dụng di dưỡng tâm hồn con người, giúp con người có được tấm lòng cao cả biết thương tình đồng loại, và đối với người thầy thuốc là biết yêu người bệnh, coi người bệnh như ruột thịt của mình.
Một tâm nguyện cống hiến, một đức tính tận tụy, hy sinh, một tấm lòng có nhân, vị tha là những điều người thầy thuốc cần phải có. Đó cũng là ngành khoa học thực nghiệm trên đối tượng cụ thể là những con người, báu vật ngoại hạng nhất của tạo hóa.
Đó là chưa kể đến nguy cơ vi phạm y đức khi áp dụng.