Đời sống khó khăn
Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trên địa bàn 7 xã gồm: Nam Mẫu, Hoàng Trĩ, Quảng Khê, Đồng Phúc, Khang Ninh, Cao Trĩ, Cao Thượng, thuộc huyện Ba Bể. Trong đó, có 13 thôn bản với 517 hộ dân thuộc các xã Nam Mẫu, Quảng Khê và Khang Ninh, toàn người dân tộc thiểu số Mông, Dao sinh sống. Bây chừ có đến 3 thôn, bản tỷ lệ hộ nghèo là 100% như: thôn Đán Mẩy, Khau Qua, Nặm Dài, xã Nam Mẫu (Vườn nhà nước Ba Bể), các thôn còn lại tỷ lệ nghèo cũng gần 50%.

Phần đông các hộ dân vùng lõi Vườn nhà nước Ba Bể còn rất khó khăn. |
Theo bà Đỗ Thị Minh Hoa, Chủ tịch UBND huyện Ba Bể, cả 3 nguyên tố cần để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, người dân thì ở những thôn vùng cao, thuộc Vườn nhà nước Ba Bể đều thiếu: Đất sinh sản ít; không có đường; trình độ thâm canh thấp. Đất sản xuất đã ít lại đẵn là đất trồng ngô, sắn. Có nhiều thôn hoàn toàn không có diện tích đất lúa, như Đán Mẩy, Khau Qua, Nặm Dài, Nà Hàn, Nà Kiêng... Đường liên lạc thì chỉ có đường mòn, nhiều thôn xe máy còn không đi được, đốn đi bộ. Do ở núi cao, rừng sâu nên người dân cũng không tiếp cận được khoa học kỹ thuật canh tác, chăn nuôi đốn các giống gia súc, gia cầm địa phương, theo cách thả rông.
Cũng như Vườn Quốc gia Ba Bể, Khu bảo tàng thiên nhiên Kim Hỷ nằm trên địa bàn 7 xã là Kim Hỷ, Lương Thượng, Lạng San, Ân Tình, Côn Minh (huyện Na Rỳ) và Cao Sơn, Vũ Muộn (huyện Bạch Thông). Trong vùng lõi Khu bảo tồn tự nhiên Kim Hỷ hiện có 10 thôn, bản với 316 hộ dân và 1.370 nhân khẩu sinh sống thuộc 3 xã Côn Minh, Kim Hỷ (Na Rỳ), Cao Sơn (Bạch Thông), đốn là dân tộc Dao, Nùng. Trong đó có một số thôn 100% là hộ nghèo như thôn Lủng Vai, xã Côn Minh (Khu bảo tàng tự nhiên Kim Hỷ); các thôn còn lại tỷ lệ nghèo cũng từ 47% trở lên.
Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc nằm trên địa bàn 3 xã Đồng Lạc, Xuân Lạc và Bản Thi, trong đó vùng lõi gồm 8 thôn với 7 hộ gia đình và 36 nhân khẩu sinh sống, cốt là người Dao, Mông. Tất thảy để là hộ nghèo.
Ông Lý Thái Hải, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Bắc Kạn cho biết: Giám sát tại các khu bảo tàng, vườn nhà nước của HĐND tỉnh cho thấy cả 3 khu vực đều có người dân sinh sống trong vùng lõi trước khi thành lập. Đời sống các hộ dân trong khu vực còn nhiều khó khăn, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhận thức và điều kiện canh tác còn lạc hậu, diện tích canh tác ít, thậm chí không có đất ruộng để canh tác nên phụ thuộc nhiều vào việc khai thác khoáng sản, lâm thổ sản và săn bắt động vật hoang dã.
Thiếu đất sản xuất
Số hộ nghèo ở các vùng lõi của Vườn nhà nước Ba Bể và hai Khu bảo tồn Kim Hỷ, Nam Xuân Lạc còn chiếm tỷ lệ cao là do đời sống của người dân phụ thuộc cốt vào sản xuất nông, lâm nghiệp, lúa, ngô là cây trồng chính nhưng diện tích ít, chỉ canh tác được một vụ. Như Khu bảo tàng tự nhiên Kim Hỷ có 213,9 ha đất canh tác, trong đó chỉ có trên 30 ha diện tích trồng lúa nước, bình quân mỗi gia đình chưa được 1.000 m2 đất để trồng ngô, sắn. Ngoại giả, thiếu nước sinh sản do hệ thống thủy lợi chưa được đầu tư, phương thức sinh sản lạc hậu nên năng suất cây trồng đạt thấp, tình trạng thiếu lương thực hàng năm từ 2 đến 3 tháng vẫn xảy ra. Đất đã ít, lại phân bố không đều.
Việc các hộ vùng cao thiếu đất sinh sản là có nguyên cớ do hầu như những hộ vùng cao là hộ người Mông, Dao, Nùng, là những dân tộc quen sống du canh, du cư, nên đi đến đâu khai phá đến đó. Những năm gần đây, Nhà nước có chính sách ổn định dân cư, tụ hội người dân du canh, du cư lại thành từng thôn, bản để tiện quản lý, cũng nhằm mục đích nâng cao đời sống cho người dân, từ nước hợp vệ sinh, rồi điện, trường, trạm y tế... Hạp cho việc nâng cao dân trí, điều kiện tiếp cận thông tin qua truyền thanh, truyền hình. Nhưng cái khó nhất vẫn là đất sinh sản cho các hộ đồng bào, bởi đất sản xuất hình thành từ trước đã có chủ, không thể lấy của người này chia cho người khác. Đất rừng cũng đã được giao khoán bảo vệ, giao đất trồng rừng, nên việc vỡ hoang là khó. Đặc biệt, trong những khu vực là vùng bảo tàng, Vườn nhà nước ngăn cấm việc khai thác, khai thác lâm thổ sản, cấm săn bắt động thực vật... Nên đời sống người dân không có đất đã khó càng thêm khó.
Ở Vườn nhà nước Ba Bể có xã Nam Mẫu nằm trọn trong vùng lõi. Cả xã có 9 thôn, bản thì có 4 thôn, bản hoàn toàn là người Mông, 1 thôn là người Dao. 5 thôn người Mông, Dao này gần như 100% là hộ nghèo. Bà Nguyễn Thị Hằng, Chủ tịch UBND xã Nam Mẫu cho biết: Toàn xã có 426 hộ, thì có 95 hộ không có đất lúa, đều nằm ở 5 thôn người Mông, Dao. Ở 5 thôn này tổng cộng có 176 hộ nhưng chỉ có 95 ha đất canh tác, trong đó có 40 ha đất lúa một vụ, 55 ha ngô cũng chỉ trồng được một vụ/năm. Sản lượng năm cao nhất cũng chỉ đạt 3 tấn lúa/ha, ngô đạt 5,5 tấn/ha. Để giảm nghèo ở những thôn bản này là rất khó, vì họ không có đất canh tác, không được phép khai thác. Đất rừng trong khu vực này cũng không được giao cho dân bảo vệ, cơ sở hạ tầng đều rất kém do khi có dự án đầu tư đều phải có đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài nguyên Môi trường.
Ngoài việc thiếu đất sản xuất, người dân sống trong vùng lõi chính yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện sinh hoạt, đi lại khó khăn, ít được tiếp cận thông tin nên trình độ dân trí thấp. Quốc gia đã có nhiều chính sách, chương trình để tương trợ, nhưng các chế độ chính sách hồ hết mới dừng lại ở việc cho không và người dân tiêu cực hưởng thụ, việc thực hành các mô hình chính yếu là các hộ dân ở vùng đệm, Đa số hộ dân vùng lõi ít tham dự thực hiện các mô hình phát triển kinh tế.
Việc khai triển các dự án trồng rừng, các dự án phát triển sinh sản đối với các hộ dân trong vùng lõi còn gặp phải một số khó khăn như: Một số hộ gia đình chưa được cấp đất ở, đất canh tác nên khi khai triển các dự án trồng rừng không thực hiện được.
Ông Nguyễn Tiến Dũng, Giám đốc Khu bảo tàng tự nhiên Kim Hỷ, cho biết: Tại Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ có 2.997,89 ha đất rừng và đất lâm nghiệp thuộc xã Côn Minh, ơn nghĩa, Kim Hỷ đã giao cho người dân quản lý trước khi thành lập Khu bảo tồn; cấp giấy chứng nhận đất thổ cư cho 64 hộ với diện tích hơn 20.000m2. Tuy nhiên, vẫn còn 192 hộ chưa được cấp với diện tích khoảng 33.000m2. Việc chưa rà cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác định vai trò là chủ rừng nên chưa có cơ sở để thực hành các chính sách về chi trả dịch vụ về môi trường theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ.
Trước thực trạng trên, tỉnh Bắc Kạn cần chỉ đạo các địa phương, ngành chức năng kết hợp thực hành có hiệu quả các chính sách hiện hành, song song nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện cho người dân sinh sống trong khu vực Vườn Quốc gia, Khu bảo tồn phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Đây là bài toán khó không chỉ cho Bắc Kạn mà của cả nước, nên cần một chính sách Quốc gia hợp lý mới có thể giúp người dân tộc sống ở vùng cao, vùng sâu, đặc biệt trong các khu vực bảo tồn, vườn Quốc gia thoát nghèo bền vững.
Bài và ảnh:Nguyễn Trình
|