Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Văn bản pháp luật không ăn được nhập gây bức xúc cho dân

Tại phiên họp thường kỳ tháng 7, Chính phủ có bẩm Đề án thử nghiệm kiểm soát Thông tư liên Bộ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

“Năm 2012, theo vắng của Bộ Tư pháp, khoảng 10 nghìn văn bản do bộ, ngành, các tỉnh ban hành không hợp với luật pháp hoặc không đúng thẩm quyền. Đích của Đề án này là gì? Làm thế nào để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành, thưa Bộ trưởng?”. Trả lời câu hỏi này, Bộ trưởng Vũ Đức Đam nói: “Không phải 10.000 Thông tư đều sai, gây bức xúc. Trong hàng chục nghìn văn bản quy phạm pháp luật, có một số điểm chưa hợp lý và chính báo chí góp ý nhiều và các bộ đã tiếp thu”.

Bộ trưởng thừa nhận có một số văn bản quy phạm luật pháp hướng dẫn có một số điều không khả thi, không hợp với thực tại liên tưởng đến quyền và nghĩa vụ của người dân. Vì thế, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp và các bộ, ngành xem xét thí nghiệm để có cơ chế kiểm soát văn bản hành chính mà từ trước đến nay giao toàn quyền cho Bộ trưởng các Bộ chuyên ngành. Bộ Tư pháp thí nghiệm đưa ra cơ chế giám định các văn bản, Thông tư của các Bộ trước khi ban hành để tránh tình trạng bất cập, không khả thi như thời gian qua.

Bộ trưởng cũng lưu ý: việc làm này phải tuân theo trình tự ban hành quy định văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Thứ hai, không làm nhẹ vai trò của Bộ trưởng các Bộ chuyên ngành.

Ví dụ trường hợp Bộ thông báo Truyền thông (TTTT). Trước đây, thuộc lĩnh vực thông báo truyền thông, Bộ trưởng chỉ đạo soạn Thông tư. Hiện, thể nghiệm việc Bộ Tư pháp giám định trước khi Bộ trưởng Bộ TTTT ban hành.

Khi Luật Xử lý vi phạm hành chính ban hành, có rất nhiều quy định ra đời.

Ví dụ liên tưởng đến thuế, đất đai, có nhiều thông tư hướng dẫn liên quan trực tiếp đến người dân. Bộ Tư pháp chẳng thể làm hết toàn bộ mà sẽ chọn lĩnh vực “nóng” làm thử nghiệm trước, từ đó tổng kết lại để rút ra kinh nghiệm để không xảy ra sơ sẩy, để chỉnh đốn chứ không làm thay đổi quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Ông Đam cũng cho hay: dù rằng tổng số văn bản bị phản ứng ít nhưng gây bức xúc cho dân chúng. Chính phủ sẽ bàn và ưng chuẩn quyết nghị./.


Tư vấn pháp lý thẳng tắp - Lựa chọn mới của DN

Theo loại hình dịch vụ này, những Luật sư, Tổ chức hành nghề trạng sư (LS, TCHN LS) sẽ sát cánh cùng doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động nhằm kịp thời hướng dẫn, cung cấp thông tin và đưa giải pháp để doanh nghiệp vận dụng cho các vấn đề pháp lý mà doanh nghiệp gặp phải.

Bên cạnh đó, các LS, TCHN LS chuyên nghiệp, cũng thẳng tính nghiên cứu, cập nhật những thay đổi về pháp luật, để dự liệu trước những cảnh huống có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp – là thân chủ của mình.

Nhiều đánh giá cho rằng khi dùng tham vấn pháp lý thẳng phí bỏ ra thấp hơn nhưng mang lại hiệu quả cao hơn, giúp doanh nghiệp vượt qua những rắc rối pháp lý không đáng có, song song cũng chọn hướng đi chiến lược nắm bắt nhịp kinh doanh.

Một số ý kiến nghĩ rằng đối với những chuyên viên pháp chế, bình thường là cử nhân luật, rất ít người là trạng sư, nên đa phần chuyên viên này chỉ xúc tiếp với những tình huống pháp lý phổ quát.

Vì vậy, khi gặp phải những vấn đề pháp lý đặc thù như: sở hữu trí não, nhượng quyền thương nghiệp, thuế và đặc biệt là các vấn đề tranh chấp có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín doanh nghiệp .... Thì họ dễ bị lúng túng do chưa có kinh nghiệm giải quyết.

Ngược lại, một hãng luật có điều kiện tiếp xúc với nhiều tình huống pháp lý khác nhau từ nhiều khách hàng, nên không kinh ngạc rằng khi doanh nghiệp đặt câu hỏi thì dường như họ sẽ không tốn nhiều thời gian để đi tìm đáp án đúng đắn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, trong thời gian hoạt động của mình, các hãng luật cũng gây dựng được nhiều mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, ban ngành trong từng lớp, tạo tiền đề giải quyết các khó khăn pháp lý của doanh nghiệp được nhanh chóng và hiệu quả.

Tuy nhiên, thường ngày các LS, TCHN LS chỉ có trách nhiệm tư vấn tức là đưa ra quan điểm pháp lý để giúp doanh nghiệp định hướng được những gì cần làm, chứ không trực tiếp thực hiện giải quyết vụ việc của doanh nghiệp (trừ trường hợp có thỏa thuận khác).

Chính nên LS, TCHS LS chỉ chịu nghĩa vụ trong khuôn khổ lời tham vấn của họ là đúng đắn, còn việc ứng dụng những lời tham vấn đó là do doanh nghiệp trực tiếp thực hành nên doanh nghiệp sẽ chịu bổn phận hoàn toàn trước pháp luật.

Chính vì vâỵt, vai trò của những chuyên viên pháp lý trong doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Tuy họ có thể chưa kinh nghiệm giải quyết những vấn đề phức tạp như một hãng luật, nhưng dựa vào kiến thức luật của mình họ lại là người nắm rõ vấn đề pháp lý mà doanh nghiệp gặp phải, từ đó họ dễ dàng tiếp nhận và áp dụng những giải pháp mà LS, TCHN LS đưa ra một cách hiệu quả hơn.

Công ty luật PLF


Ban hành văn bản quy bất hợp pháp luật sai: cung cấp Cần truy cứu trách nhiệm hình sự

TS Lê Hồng Sơn - Cục trưởng Cục thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp.

- Thưa ông, trong thời gian qua xuất hiện khá nhiều văn bản quy bất hợp pháp luật (VBQPPL) khôn xiết trái ngang và những đề xuất rất phi thực tiễn từ các cơ quan chức năng, như: Quy định chỉ được bán thịt trong vòng 8 tiếng sau khi giết thịt của Bộ NNPTNT; cộng điểm cho bà mẹ VNAH khi thi đại học của Bộ GDĐT; CMTND phải ghi cả tên bố, tên mẹ, đi xe phải đi xe chính chủ của Bộ Công an... Vậy đâu là nguyên cớ?

- Tôi có thể khẳng định ngay là trình độ của các cán bộ tư vấn ban hành VBQPPL của một số cơ quan còn hạn chế, thậm chí có những đề xuất, ban hành rất ấu trĩ, quan tiền, phi thực tại như nhiều người đã thấy. Đành rằng để nắm bắt được thực tiễn đưa vào luật không phải là dễ dàng, nhưng không nên mà những người đề xuất, tư vấn, trình, ký VBQPPL ở trên mây, trên gió, chả biết đâu là nhu cầu thực thụ để trình, ban hành các VBQPPL cho chuẩn. Một vấn đề nữa dẫn đến xảy ra tình trạng này là cơ chế khen thưởng, xử lý ở lĩnh vực này cũng không rõ ràng. Người làm tốt thì không được khen thưởng kịp thời, người làm chưa tốt thì cũng chẳng sao cả, thậm chí làm sai cũng chẳng bị kỷ luật gì.

- Có nhiều quan điểm cho rằng việc đề xuất, ban hành những văn bản sai lầm nhiều khi xuất phát từ ích lợi nhóm, ông đánh giá thế nào về quan điểm này và cách xử lý?

- Hiện tượng lobby chính sách thì ở đâu cũng có và nó xuất hiện ở bất cứ nhà nước và thiết chế chính trị nào. Nhưng với những nước phát triển, họ có cơ chế giám sát và xử lý thẳng cánh đối với những VBQPPL ban hành trái thẩm quyền, trái nội dung, phi thực tế, như thành lập tòa án hiến pháp để cơ quan này xử lý thảy những văn bản quy phạm pháp luật được cho là đi ngược với ý thức và quy định của hiến pháp. Còn ở nước ta, cơ chế giám sát và xử lý các VBQPPL sai lầm chưa rõ ràng. Có những văn bản sau khi được ban hành, ai cũng thấy rằng nó có vấn đề, nhưng ngăn chặn, xử lý như thế nào là cả một vấn đề.

Tôi cho rằng muốn ngăn chặn được nó, thì khâu soạn thảo văn bản phải minh bạch, được lấy ý kiến rộng rãi trong quần chúng. #. Trường hợp đã ban hành mới phát hiện ra sai lầm thì phải xử lý ngay, thật nghiêm khắc, không thể có kiểu khi thấy dư luận bức xúc thì mới từ từ huỷ bỏ. Nếu phát hiện việc cố tình tư vấn, ban hành văn bản sai trái để phục vụ ích cho một số người, một nhóm người, gây thiệt hại cho xã hội thì cần phải quy nghĩa vụ hình sự, bởi nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn những trường hợp này sẽ rất hiểm nguy cho xã hội. Theo tôi, đây là loại tội hiểm nguy bởi nó tác động, chi phối để kiếm lợi ích ngay từ khâu thể chế chính sách.

- Hiện việc xử lý VBQPPL sai chỉ dừng ở mức thu hồi, hủy bỏ rồi làm lại. Vậy có quy định nào buộc phải đền bù thiệt hại cho dân vì các loại văn bản sai trái nói trên, thưa ông?

- Đây đúng là một vấn đề rất đáng lưu tâm, nhưng thật đáng tiếc là Luật nghĩa vụ đền bù của nhà nước đã không xác lập trách nhiệm đền bù thiệt hại cho người dân khi cơ quan nhà nước ban hành VBQPPL sai trái. Tôi cho rằng, vấn đề này cũng cần phải nghiên cứu để đảm bảo nguyên tắc quốc gia pháp quyền.

-Trân trọng cảm ơn ông!

Việc ưu tiên cộng điểm thi đại học, cao đẳng: Bộ GDĐT đã sửa vẫn còn sai

Ngay sau khi nhận được thông tin băn khoăn của dư luận về quy định bổ sung “đối tượng ưu tiên” trong tuyển sinh tại thông tư 24 của Bộ GDĐT, Thứ trưởng Bộ GDĐT Bùi Văn Ga đã ký ban hành thông tư số 28 về việc huỷ bỏ đối tượng ưu tiên quy định tại thông tư số 24. Trong đó, chỉ huỷ bỏ ưu tiên trong tuyển sinh đối với 3 đối tượng là bà mẹ VN anh hùng; người hoạt động cách mạng trước ngày 1.1.1945; người hoạt động cách mệnh từ ngày 1.1.1945 đến ngày khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Còn các đối tượng là con của người hoạt động cách mệnh, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; con của người hoạt động kháng chiến giải phóng, dân tộc, bảo vệ giang sơn và làm nghĩa vụ quốc tế vẫn được giữ nguyên chế độ hưởng ưu tiên cộng điểm thi ĐH.

Cục soát VBQPPL thấy rằng việc Bộ GDĐT vẫn giữ ưu tiên trong tuyển sinh đối với 2 đối tượng trên là hoàn toàn trái với quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mệnh, đồng thời mang tính bất hợp lý cao. Vì vậy, hiện Cục Kiểm tra VBQPPL đã gửi ít nhanh lên lãnh đạo Bộ Tư pháp để xin ý kiến chỉ đạo về việc này.Uyên Minh


Xem tin xét trách nhiệm và xử lí nghiêm minh

Sai phạm đã rõ phải xử lí nghiêm minh

Là một lính cách mạng, tôi không lí giải nổi vì sao ngay từ cuối năm 2010, những sai phạm rất

Trung tá Anh hùng Phạm Văn Sức.
Nghiêm trọng của Đại tá Trần Văn Vệ, cựu Giám đốc Công an tỉnh thanh bình đã được Báo Người cao tuổi phản chiếu chân thực, khách quan nhưng Bộ Công an lại im lặng đến đáng ngờ, ông Vệ được phong hàm Thiếu tướng, môi trường cho ông Trần Văn Vệ thẳng thớm xuất hiện trên các kênh truyền hình bảo ban dân? Là người lính xông pha trên 10 vạn ki-lô-mét ở khắp nẻo đường Trường Sơn của những năm tháng chống Mỹ khốc liệt cũng như bao đồng đội khác của tôi không thể chấp nhận khi các đời cha anh đã đổ bao xương máu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc nay lại đứng trước họa "giặc nội xâm", bởi bọn quan tham như tướng Vệ? Điều nguy hiểm là sự tồn tại này trình diễn.# Có sự bao đỡ của một thần thế vô hình đã tiếp tay cho những cán bộ thoái hóa, có cơ hội "leo cao, chui sâu" vào bộ máy công quyền của quốc gia như tướng Vệ? Những sai phạm của ông Trần Văn Vệ đã rõ, chỉ cần 2 vụ việc đồng lõa, bao che cho vợ như Báo đã nêu cũng đủ cơ sở đưa tướng Vệ ra khỏi Lực lượng Công an. Là những người lính dù nay đã về nghỉ hưu, chúng tôi tớ hỏi những sai phạm đó phải được xử lí nghiêm minh!

Chúng tôi hoan nghênh Báo Người cao tuổi và nhà báo Nguyễn Trọng Thắng, mong muốn Báo Người cao tuổi và tác giả luôn vững, đấu tấn công bóc trần tù hãm của bọn quan tham, không để lộng hành như bây giờ, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân; trong đó có tôi, cho dù đã được Đảng và Nhà nước vinh danh danh hiệu cao quý, nhưng cũng đang bị "quan tham" sở tại xâm hại!

Trung tá CCBPhạm Văn Sức
(Anh hùng LLVT nhân dân, quê xã Đồng Tiến,
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh yên bình)

Mọi công dân được hưởng sự công bằng của luật pháp

Cám ơn Báo Người cao tuổi và nhà báo Nguyễn Trọng Thắng đã cung cấp nhiều thông tin rất đáng quan hoài cho độc giả.

Ông Nguyễn Xuân Nhự.
Chỉ riêng việc vợ tướng Vệ mạo hồ sơ hưởng chế độ hưu trí năm 33 tuổi, giả mạo hồ sơ gửi BHXH đã là tội phạm hình sự rồi. Còn việc bà vợ tướng Vệ mạo xưng thương gia tháp tùng Phó chủ toạ nước là việc hạ nhục quốc thể, ảnh hưởng uy tín lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Thanh tra Bộ Công an lại có kết luận như Báo nêu thì quả là khó chấp nhận. Người dân có quyền đặt câu hỏi, vậy vợ con các tướng mạo phạm tội là vô can à? Ông Vệ vẫn được phong tướng trong khi vợ vi phạm luật pháp thì lại càng khó hiểu(!).

Là một nạn nhân của sự o ép của Công ty Hateco - Công ty của anh em ông Vệ, tôi hiểu vì sao thái độ của Công ty lại ngạo mạn, lại o ép khách hàng đến như vậy và cũng cảm thông với các khách hàng khác tại sao họ lại cam chịu, có phần sợ sệt đến thế?

Tôi cũng hiểu được phần nào TAND tỉnh thái hoà xử phiên phúc án về việc tranh chấp hiệp đồng giữa vợ chồng tôi và Công ty Hateco lại thiếu công bằng đến mức thô thiển như vậy, đến mức Báo luật pháp số 162 (5.319) ra ngày 11/6/2013 đã có bài "Tòa án quần chúng. # Tỉnh yên bình bênh người vi phạm hiệp đồng". Đề nghị Báo Người cao tuổi và nhà báo Nguyễn Trọng Thắng nối tìm hiểu để đưa vụ án này ra ánh sáng, góp phần để mọi công dân như tôi được hưởng sự công bằng của luật pháp. Mong các cơ quan chức năng xem xét bổn phận và phẩm chất của những cá nhân chủ nghĩa thực thi công vụn

Nguyễn Xuân Nhự
(Cựu Phó Vụ trưởng VPCP,
thường trú tại phố Lý Thường Kiệt,
TP thăng bình)

Luôn tin tưởng vào sự công minh

Tôi đã đọc loạt bài điều tra và bình luận gần đây trên Báo Người cao tuổi, nêu những sai phạm của ông

Ông Bùi Ngọc Quỳnh.
Trần Văn Vệ, cựu Giám đốc Công an tỉnh yên bình, nay là Thiếu tướng Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục cảnh sát QLHC-TTXH Bộ Công an, phần nào phản chiếu sự tha hóa biến chất của ông như: Để vợ nhận lương hưu từ năm 33 tuổi mới có 10 năm đóng bảo hiểm tầng lớp, để vợ đóng giả Phó giám đốc điều hành doanh nghiệp tháp tùng Phó Chủ tịch nước đi đối ngoại. Việc ông Vệ bán nhà công vụ của Công an, bán trụ sở Công an huyện Đông Hưng thất thoát nhiều tỉ đồng của quốc gia nhưng chắc là được chảy vào account của anh em ông Vệ. Vụ án ma túy Cò Nòi cũng là điều thất thường còn việc có hay không bảo kê cho tầng lớp đen ở yên bình để rồi khi ông Vệ đi khỏi thanh bình thì những hiện tượng bảo kê gần như chơi còn nữa?

Là người dân tôi luôn tin vào sự công minh của luật pháp cũng như rất tin cẩn vào bản lĩnh và lòng kiêu dũng của Báo Người cao tuổi đã chiến đấu không nhân nhượng với những sai phạm của những cán bộ thoái hóa biến chất càng làm cho tôi kính trọng và bái phục. Những hành vi và việc làm sai trái của ông Vệ cần phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lí nghiêm minh. Là cán bộ cao cấp của Công an nhưng những việc làm của ông Trần Văn Vệ là không xứng đáng với cương vị và trọng trách, cần được làm rõ và xử lí theo quy định của pháp luật để làm trong sạch lực lượng Công an cách mệnh, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy Công an quần chúng. #, Góp phần bảo vệ Đảng và chế độ. Tôi và nhiều công dân ở huyện Tiền Hải (yên bình), khôn xiết trân trọng, thán phục Báo Người cao tuổi đã anh dũng đấu tranh và dám nói thẳng, nói thật, không sợ cường quyền, dám đấu tranh với mọi thách thức để người dân hiểu được bản tính của một cán bộ thoái hóa, biến chất như ông Trần Văn Vệ.

Bùi Ngọc Quỳnh
(Xã Nam Thanh, huyện Tiền Hải,tỉnh Thái Bình)


Cung cấp Khám sức khỏe trước cưới – đôi ngả băn khoăn

"Bắt tay" tư pháp để… kiểm tra sức khỏe tân lang, tân nương

Từ năm 2003, tức thị cách đây 10 năm tròn, Ủy ban Dân số, Gia đình và con trẻ đã khai triển thử nghiệm một số mô hình, hoạt động can thiệp cho vị thành niên, thanh niên và đối tượng chuẩn bị hôn phối nhằm tăng cường cung cấp cho các nhóm đối tượng này cả về kiến thức, kỹ năng thực hành chăm nom sức khỏe sản xuất, những kỹ năng sống căn bản chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống gia đình.

Trên cơ sở thử nghiệm thành công, Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế đã từng bước mở rộng địa bàn triển, để đến năm 2013 63/63 tỉnh, đô thị trong cả nước đã có mô hình với tên hợp nhất là “Mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân”. Tại một số địa phương trong cả nước, mô hình tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân đã được thực hiện hiệu quả. Tính riêng năm 2012, ngoài nguồn kinh phí từ Trung ương (cấp cho 1.402 xã), đã có 564 xã tự bổ sung kinh phí địa phương để triển khai mô hình.

“Quan điểm chung của những người xây dựng dự thảo Luật Dân số là tiếp cận các vấn đề trên cơ sở quyền của người dân được đảm bảo”- Ông Trần Ngọc Sinh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Thanh tra, Tổng cục DS-KHHGĐ.

Nhận thấy tầm quan yếu của việc khám sức khỏe tiền hôn nhân, Long An là một trong số rất ít địa phương tương trợ kinh phí cho các trường hợp khám sức khỏe tiền hôn nhân, với mức tiền là 160.000đ/người, bao gồm khám sức khỏe tổng quát, xét nghiệm viêm gan B và HIV.

Chẳng những thế Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Long An còn có sáng kiến phối hợp với ngành tư pháp để hướng dẫn người dân về tính cấp thiết của khám sức khỏe tiền hôn nhân. Mỗi cặp nam nữ khi đến UBND đăng ký kết hôn, cán bộ tư pháp hộ tịch sẽ gửi giấy giới thiệu lên trung tâm y tế huyện để họ được tham vấn và khám, song song tên họ vào mẫu giấy quản lý đối tượng đến tham vấn và khám sức khỏe trước khi hôn phối.

Cũng là một địa phương nhận thức và khai triển tốt về vấn đề khám sức khỏe tiền hôn nhân, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh thành TP Hồ Chí Minh đã kết hợp với Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở Tư pháp thành phố để họ có văn bản chỉ đạo xuống hệ thống quận, huyện, xã, phường.

Mới đây nhất, trong lễ tổng kết 10 năm thực hành Pháp lệnh dân số và chuẩn bị xây dựng Pháp lệnh dân số mới, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình TP HCM vừa đề xuất UBND tỉnh thành tấm các lứa đôi muốn được đăng ký hôn phối phải khám sức khỏe. Vì chương trình tầm soát sức khỏe tiền hôn nhân được thực hiện miễn phí trong thời gian qua cho thấy 20-30% đôi vợ chồng bị mắc một số bệnh, theo bà Bà Tô Kim Hoa, Chi cục trưởng.

Có nên “xiết” bằng luật?

Không chính xác khi nói rằng, trước nay chưa có văn bản đề cập tới vấn đề khám sức khỏe tiền hôn nhân. Ngược lại đã có tương đối nhiều luật, chính sách nhắc tới vấn đề này. Đơn cử như Khoản 1, Điều 23 Pháp lệnh Dân số; Điều 25 Nghị định số 104/2003/NĐ-CP; Quyết định 05/QĐ-BYT ngày 7/1/2011 của Bộ Y tế…, nhưng tuốt luốt đều dừng lại ở ngưỡng khuyến khích, cổ vũ.

Tuy nhiên, từ thực tiễn nhiều người dân và cả ngành y tế không đặm đà với việc này (tại Cao Bằng năm 2011 chỉ có 6 cặp chuẩn bị thành thân đi khám, năm 2012 không có ai, vì người đi khám phải mất phí, khám lẫn với người bệnh), nên các nhà làm luật đã cân nhắc tới vấn đề cần “xiết” bằng luật để đảm bảo sự thực thi với cả người dân lẫn y tế.

Khi sửa đổi Luật HN-GĐ, Bộ Tư pháp đưa ra ra hướng để tuyển lựa là nên giữ nguyên quy định không đòi hỏi người thành hôn phải có giấy chứng nhận sức khỏe vì gây quấy rầy, tốn kém cho người dân hoặc phải có giấy chứng thực sức khỏe để bảo đảm mục đích của thành hôn là xây dựng gia đình hạnh phúc, khỏe mạnh. Sau nhiều lần bàn thảo, Bộ Tư pháp đã nhất trí không đưa vấn đề này vào trong dự thảo, trước mắt chỉ nên tuyên truyền, khuyến khích người dân thực hiện, để tiến tới việc luật hóa sau này.

Vấn đề này lại một lần nữa được xới xáo khi Luật Dân số bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, cũng như đồng nghiệp, các chuyên gia của Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế lại “đứng” trước đôi đường “khuyến khích” hay “ép”.

Khuyến khích thì là công việc xưa nay đã có, đã làm, còn nếu ép thì có rất nhiều vấn đề cần được luật hóa như: Các nội dung cốt quy định về quy trình, nội dung tham mưu, khám sức khỏe tiền hôn nhân; nhu cầu và điều kiện của nam, nữ được tham mưu, khám sức khỏe tiền hôn nhân; điều kiện và nghĩa vụ của cơ sở dịch vụ y tế để thực hành tham mưu, khám sức khỏe tiền hôn nhân…

Bên cạnh đó, một trong những lý do người dân e dè việc khám sức khỏe tiền hôn nhân là những bí ẩn về bệnh tật của họ sẽ bị lộ. Vậy phải việc khám sức khỏe tiền hôn nhân được luật hóa, thì chế tài nào sẽ đảm bảm cho tính bảo mật thông tin can hệ đến sức khỏe khách hàng?. Trong khi thực tại cho thấy, những tiết lộ về kết quả xét nghiệm HIV đã nhiều lần bị lộ ra từ cơ sở y tế, khiến nhiều nạn nhân khốn khổ.

Hồng Minh


“Xử lý sớm mới phát sinh do không hiểu đúng Luật Lý lịch tư pháp“

Đó là khẳng định của ông Đặng Thanh Sơn – Giám đốc trọng tâm Lý lịch tư pháp quốc gia (Bộ Tư pháp) khi trao đổi vớiPLVNvề những vấn đề nảy do việc hiểu không đúng tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp trong việc yêu cầu cấp Phiếu số 2 giờ.

- Do có sự khác nhau giữa Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và số 2 nên một số cơ quan, tổ chức đã yêu cầu công dân nộp bổ sung Phiếu số 2 mặc dầu trước đó họ đã nộp Phiếu số 1, gây bất lợi cho người dân. Ông có thể giải thích vì sao phải có hai loại Phiếu lý lịch tư pháp?

- Nội dung Phiếu số 1 là về án tích của một cá nhân nên nếu các án tích đã xóa thì sẽ không được ghi nhận trong phiếu số 1. Còn Phiếu số 2 thì ghi ắt các án tích của một cá nhân nên chỉ qui định cấp trong 2 trường hợp (theo đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho hoạt động tố tụng hoặc trong trường hợp công dân muốn biết rõ về lý lịch tư pháp của mình), chứ không nhằm phục vụ cho các mục đích khác như Phiếu số 1. Quy định như vậy để đảm bảo tính nhân văn, nhân đạo đối với công dân.

Ông Đặng Thanh Sơn – Giám đốc Trung tâm Lý lịch Tư pháp quốc gia (Bộ Tư pháp)

Thời kì qua, do chưa hiểu quy định của Luật Lý lịch tư pháp nên một số cơ quan đại diện nước ngoài (các đại sứ quán), tổ chức quốc tế ở Việt Nam và cả một số doanh nghiệp trong nước đã đề nghị công dân Việt Nam phải bổ sung Phiếu lý lịch tư pháp số 2 vào hồ sơ làm thủ tục xuất cảnh hoặc định cư ở nước ngoài.

Đề nghị này là không đúng ý thức của Luật Lý lịch tư pháp và gây bất lợi cho công dân Việt Nam. Vấn đề này liên tưởng trực tiếp đến việc khai triển Luật Lý lịch tư pháp gần 3 năm qua và là một trong những vấn đề nảy trong quá trình thực thi Luật.

- Vậy, Bộ Tư pháp xử lý vấn đề này như thế nào?

- Chúng tôi đã phối hợp với Cục lãnh sự (Bộ Ngoại giao) tiến hành một số hoạt động khăng khăng để xử lý vấn đề này. Cụ thể, Bộ Tư pháp đã chuyển cho Cục Lãnh sự một số mẫu Phiếu số 1 để giới thiệu cho các Đại sứ quán, tổ chức quốc tế tại Việt Nam nhằm giúp họ hiểu tinh thần của Luật, chấm dứt đề nghị công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2 khi có làm thủ tục xuất cảnh hoặc định cư.

Và theo đề nghị của Bộ Tư pháp, Cục Lãnh sự cũng đã có công hàm gửi đến các nước có đại sứ quán đã và đang đề nghị công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2 để đề nghị chỉ yêu cầu Phiếu số 1 trong hồ sơ của công dân Việt Nam làm thủ tục xuất cảnh sang hoặc định cư tại các nước này.

Nếu các đại sứ quán chưa hợp nhất về vấn đề này thì chúng tôi sẽ tiếp chuyện cùng Bộ Ngoại giao có những động thái tiếp theo để chính thức giảng giải, bảo đảm việc thực thi đúng Luật Lý lịch tư pháp.

- Theo quy định, việc xin cấp Phiếu số 2 phải trực tiếp, không được ủy quyền cho người khác. Mới đây, Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh đã triển khai mô hình nhận hồ sơ cho người yêu cầu cấp Phiếu số 2 qua bưu điện. Tuy không đúng quy định của pháp luật nhưng mô hình này lại tạo thuận lợi trong giải quyết thủ tục cho người dân. Quan điểm của Bộ Tư pháp về vấn đề này như thế nào, thưa ông?

- Điều 46 khoản 2 quy định Phiếu số 2 được cấp theo đề nghị của cơ quan tiến hành tố tụng và nếu cá nhân chủ nghĩa muốn biết rõ về lý lịch tư pháp của mình nên pháp luật không cho ủy quyền xin cấp Phiếu số 2. Điều này hoàn toàn trái lại với đề nghị cấp Phiếu số 1 được ủy quyền, thậm chí không một mực phải ủy quyền thì người thân thích (cha, mẹ, anh, em, con, vợ, chồng…) cũng có thể thực hiện đề nghị cấp Phiếu số 1 hộ.

Việc Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh chấp nhận hồ sơ cấp Phiếu số 2 qua đường bưu điện là do lượng người có đề nghị ngày càng tăng. Cách làm này tạo điều kiện cho người dân song như tôi đã giải thích, Luật Lý lịch tư pháp không qui định như vậy.

Do đó, Bộ đang chỉ đạo Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh bẩm về tình hình này và thực hiện đúng ý thức của Luật Lý lịch tư pháp. Quan trọng nhất là Bộ song song xử lý từ “gốc” của vấn đề bằng cách phối hợp cùng Bộ Ngoại giao giải quyết tình trạng các cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt nam đề nghị công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2.

Vấn đề này được giải quyết sẽ hệ trọng được việc của Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ cố kỉnh xử lý trong thời kì tới với mục đích bảo đảm cho Luật Lý lịch tư pháp được thực hành đúng và tạo điều kiện tiện lợi nhất cho người dân trong các công việc liên hệ đến Phiếu lý lịch tư pháp.

- Trân trọng cảm ơn ông!

H.Giang(thực hành)


Tư vấn pháp thay đổi luật và doanh nghiệp

(Cadn.Com.Vn) - Đầu năm 2012, Cty chúng tôi có đưa 3 người cần lao sang Nhật để đào tạo. Theo giao kèo đào tạo, họ sẽ làm việc cho Cty trong hạn vận 5 năm kể từ ngày kết thúc khóa đào tạo, nếu vi phạm thì phải bồi thường hoài đào tạo theo quy định của pháp luật. Đầu năm nay, 3 người lao động này yêu cầu được tăng lương với mức lương quá cao so với mặt bằng lương của Cty nên Cty đã không hài lòng. Phản ứng lại, họ liên tục vi phạm nội quy cần lao, đặc biệt, tháng 6-2013, họ tự ý nghỉ việc 7 ngày mà không có lý do chính đáng. Vậy, trong trường hợp này có được xem là người lao động đơn phương kết thúc hợp đồng lao động trái luật pháp không và Cty chúng tôi có được quyền yêu cầu họ bồi thường hoài đào tạo không?

Trạng sư Lê Ngô Hoài Phong- Trưởng Chi nhánh Văn phòng trạng sư Phạm và Liên Danh tại Đà Nẵng trả lời:

Theo nội dung thể hiện của bà thì có thể hiểu rằng, mặc dù người lao động nghỉ việc 7 ngày không có lý do trong tháng 6-2013 nhưng hiện họ vẫn đang làm việc tại Cty. Như vậy, chẳng thể xem đây là trường hợp người cần lao đơn phương kết thúc giao kèo trái luật pháp. Tuy nhiên, đây thuộc trường hợp "người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong 1 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 1 năm mà không có lý do chính đáng" theo quy định tại Khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động 2012 nên Cty có quyền vận dụng hình thức kỷ luật sa thải. Bà Ánh cần lưu ý rằng người lao động chỉ hoàn trả hoài đào tạo trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; trong trường hợp sa thải, người lao động không phải hoàn trả chi phí đào tạo dù cho điều đó được các bên thỏa thuận tại giao kèo đào tạo hay người lao động có văn bản cam kết.

Chuyên mục này có sự hiệp tác về chuyên môn của

Chi nhánh Văn phòng luật sư Phạm và Liên Danh tại Đà Nẵng

Đường dây nóng tương trợ tư vấn: 0511.3600109


Bí mật đời tư bị ảnh hưởng vì hay phiếu lý lịch tư pháp?

Người dân làm thủ tục cấp lý lịch tư pháp.Hình minh họa.

Thông báo ngắn, đảo lộn lớn

“Bắt đầu từ ngày 1/11/2012, vớ các đương đơn xin thị thực định cư và thị thực hôn phu (hôn thê) sẽ được yêu cầu nộp Lý lịch tư pháp số 2, để thay thể cho Lý lịch tư pháp số 1, như một phần trong bộ hồ sơ xin thị thực. Lý lịch tư pháp số 2 sẽ có giá trị một năm dành cho những đương đơn từ 16 tuổi trở lên”.

Đây là thông tin rất ngắn gọn của một cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam về việc yêu cầu Phiếu lý lịch tư pháp số 2 đối với hồ sơ xin thị thực định cư và thị thực hôn phu (hôn thê) của công dân Việt Nam. Nhưng đằng sau nó lại gây nên những xáo trộn không đáng có trong cuộc sống của người dân.

Và đáng tiếc hơn, những thông tin kiểu này đang càng ngày càng phổ quát và đến từ nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau.

Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp (LLTP) năm 2009, Phiếu LLTP gồm có: Phiếu lý lịch tư pháp số 1 cấp cho công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang trú ngụ tại Việt Nam, cơ quan quốc gia, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - từng lớp; Phiếu LLTP số 2 cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và cấp theo đề nghị của cá nhân để người đó biết được nội dung về lý lịch tư pháp của mình.

Phiếu LLTP số 1 là Phiếu ghi các án tích chưa được xóa và không ghi các án tích đã được xóa; thông báo về cấm đảm trách chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, cộng tác xã chỉ được ghi vào Phiếu LLTP số 1 khi cá nhân chủ nghĩa, cơ quan, tổ chức có yêu cầu. Phiếu LLTP số 2 là Phiếu ghi đầy đủ các án tích, cả án tích chưa được xóa lẫn án tích đã được xóa; thông báo về cấm phụ trách chức phận, thành lập, quản lý doanh nghiệp, cộng tác xã.

Thống kê của Sở Tư pháp một số tỉnh, thị thành cho biết, yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 chiếm đa số. Tại TP.Hồ Chí Minh cũng hao hao. Từ năm 2010 đến tháng 9/2012, yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1 ở đô thị mang tên Bác là 99%.

Nhưng từ tháng 10/2012 đến nay, yêu cầu Phiếu LLTP số 2 tăng đột biến đến 60%. Lý do tăng đốn là vì các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài tại Việt Nam đề nghị người dân phải bổ sung Phiếu LLTP số 2, trong khi trước đây nộp hồ sơ, người dân chỉ cần nộp Phiếu LLTP số 1.

Một trong các mục đích và nguyên tắc quản lý LLTP là ghi nhận việc xóa án tích, tạo điều kiện cho người đã bị kết án tái hòa nhập cộng đồng và đảm bảo quý trọng bí mật đời tư của cá nhân. Tuy nhiên, mục đích nhân đạo này sẽ bị ảnh hưởng khi mà ngày một có nhiều cơ quan, tổ chức “lạm dụng” quyền được cấp Phiếu LLTP số 2 của cá nhân để yêu cầu người dân nộp bổ sung nhằm “nắm” được những thông báo thuộc về bí hiểm đời tư.

Phải, một người từng bị kết án và đã được cấp giấy chứng thực xóa án tích thì khi người đó yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 1, trong mục tình trạng án tích chỉ ghi nhận là “không có án tích”. Còn nếu người đó yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 thì mục này cũng được ghi nhận là “không có án tích” song kèm theo là thông tin về bản án (tội danh, điều khoản ứng dụng, hình phạt chính, bổ sung, án phí, ngày tháng năm tuyên án, thi hành án…) và ghi chú thông tin về việc đã được xóa án tích.

Khó khăn trong thực hành quyền yêu cầu cấp Phiếu

Ngoài ra, theo quy định hiện hành, công dân Việt Nam, người nước ngoài đã hoặc đang ngụ tại Việt Nam có quyền đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp của mình. Khi cá nhân chủ nghĩa đề nghị cấp Phiếu LLTP số 1 thì họ có thể ủy quyền cho người khác làm thủ tục này. Tuy nhiên, đối với Phiếu LLTP số 2 thì người đề nghị cấp Phiếu không được ủy quyền cho người khác mà phải trực tiếp làm thủ tục. Điều này đã gây khó khăn cho việc đi lại và tốn kém tiền bạc của người dân, nhất là đối với những người đang sống, học tập và làm việc ở nước ngoài.

Rất nhiều người dân đã san sẻ về những vướng mắc trên với báo giới. Chả hạn như trường hợp của ông T.V.C (huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh). Ông C đến Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 thay cho con ông đang du học ở Singapore.

Hồ sơ của ông bị từ khước vì Phiếu số 2 theo quy định phải do người con trực tiếp đến nộp và nhận kết quả. Ông Chính rầu rĩ: “Tôi tưởng như lần trước cấp Phiếu LLTP số 1, tôi cũng đi làm giùm con mà không cần đến giấy ủy quyền, ai dè lần này hổng được. Giờ con tôi đang thực tập, đâu có thời kì về nước, tát đi về cũng tốn kém tiền bạc lắm.”.

Hay chị N.T.C.V (huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí Minh) nộp hồ sơ cấp Phiếu LLTPsố 2 cho chồng cũng bị khước từ. Chị V tâm can: “Chồng tôi đi xuất khẩu lao động ở Nhật được hai năm và sắp mãn hiệp đồng. Nay công ty đòi anh ấy bổ sung Phiếu này để làm hồ sơ qua nước khác. Trước đây, chồng tôi đã nộp Phiếu LLTP số 1, giờ họ đòi thêm Phiếu này nữa. Mỗi lần về nước là tốn trên 10 triệu đồng mà không biết khi anh ấy về có kịp làm hồ sơ hay không”.

Na ná, chị N.T.M.T ở quận Ba Đình, Hà Nội (đang du học ở Australia) cũng phải về nước để làm thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Do trước đó, mẹ chị T đã đến Sở Tư pháp TP.Hà Nội yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 cho con thì bị từ chối vì quy định nép người yêu cầu cấp Phiếu số 2 phải trực tiếp làm thủ tục.

Thục Quyên


Nâng cao mới hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo

Đồng chí Lò Thị Mỷ.

Việc giải quyết khiếu nại, cáo giác, tranh chấp LĐ, làm reo phải được các cấp CĐ giải quyết ngay từ cơ sở và trong từng cơ quan, doanh nghiệp. Để làm tốt điều đó, các cấp CĐ cần tăng cường kết hợp chém với các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền, dự giải quyết kịp thời có hiệu quả các ý kiến của người LĐ; kịp thời phản ánh những bất cập trong khiếu nại, tố cáo với các cấp có thẩm quyền; theo dõi, giám sát việc giải quyết khiếu nại, cáo giác, tranh chấp LĐ dứt điểm, không để kéo dài. Cùng với việc chủ động trong giải quyết, các cấp CĐ phải thực hành tốt việc tiếp và lắng nghe ý kiến đề đạt của công nhân, nhân viên, LĐ chuẩn y các cuộc hội thoại, gặp gỡ, xúc tiếp...; Chỉ dẫn họ thực hành quyền khiếu nại, tố cáo đúng quy định của pháp luật. CĐ cấp trên phải liền tìm hiểu, hướng dẫn, hỗ trợ giải quyết ngay khi xuất hiện nguy cơ tranh chấp LĐ, khiếu nại, tố cáo, ngăn ngừa tranh chấp LĐ tập thể và đình công.

MAI THANH (ghi)


Cần có cái nhìn khách quan về tình hình đạo mới ở Việt Nam

QĐND - Ngay sau khi giành được độc lập (1945), chủ toạ Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, vấn đề có tính nguyên tắc trong chính sách đạo của ViệtNam là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo kết đoàn”. Tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước Việt Nam biểu lộ trong quá trình lãnh đạo cách mệnh. Quan tâm đến công tác tôn giáo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng nói chung và đời sống của đồng bào các tôn giáo nói riêng là một trong những nguyên tắc lãnh đạo, quản lý từng lớp và điều hành giang sơn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp trước hết của Việt Nam năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: “Mọi công dân Việt có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một đạo nào. Không ai được lợi dụng đạo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hòa tầng lớp chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, đạo, theo hoặc không theo đạo nào. Các tôn giáo đều đồng đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ phụng của các tín ngưỡng, đạo được luật pháp bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, đạo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, đạo để làm trái luật pháp và chính sách của Nhà nước”.

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật càng ngày càng ở chừng độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động đạo đã được thay thế bằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI duyệt ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và quốc gia Việt Nam là coi trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, luật pháp hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được miêu tả sinh động trong cuộc sống hằng ngày.

Các số liệu được đưa ra tại cuộc tọa đàm về tự do tôn giáo được Đại sứ quán ViệtNam tại Mỹ tổ chức ngày 20-6-2013 ở Oa-sinh-tơn cho thấy, nhận thức và hoạt động tôn giáo tại Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn trong vòng 20 năm qua. Đời sống đạo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện và đang phát triển theo chiều hướng tích cực, tạo ra sự ổn định trong tầng lớp. Số người theo đạo đã tăng từ 22 triệu lên 25 triệu người trong vòng 2 năm, trong khi số đạo được công nhận đã tăng từ 6 lên 13 trong vòng 8 năm. Rất nhiều tôn giáo có đại diện trong chiến trận giang san và Quốc hội, góp phần củng cố chính sách đại đoàn kết dân tộc.

Cũng tại cuộc tọa đàm này, tấn sĩ Cơ-rít Xây-plơ, chủ toạ Viện hệ trọng toàn cầu (IGE), một tổ chức phi chính phủ Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam đã đánh giá cao những tiến triển về tự do tôn giáo tại Việt Nam: “Tại khu vực Tây Bắc, đã có hơn 300 nhà thờ được đăng ký và con số này tại Tây Nguyên là hơn 2000. Ngay trong tuần này, một chủng viện Tin lành đã lần đầu tiên được đăng ký tại ViệtNam. Lần trước hết kể từ năm 1975, Chính phủ Việt Nam sẽ tài trợ 150.000USD cho công tác nghiên cứu về vấn đề tôn giáo và pháp quyền. Chúng tôi đồng hành với những gì Chính phủ và dân chúng Việt Nam đang thực hành. Nếu không có những quyết định tích cực của Việt Nam thì chúng tôi sẽ không thể hoạt động tại đây”.

Theo số liệu của Ban tôn giáo Chính phủ (năm 2011), Việt Nam có hơn 25 triệu tín đồ (chiếm hơn 1/4 dân số), trong đó Phật giáo khoảng 10 triệu người, Công giáo 6,1 triệu, Cao đài 2,4 triệu, Hòa hảo 1,2 triệu, Tin lành 1,5 triệu và Hồi giáo khoảng 100.000. Nếu kể các hành vi thờ phụng tổ sư, thành hoàng, vua Hùng… thì hầu hết người Việt có tâm linh tôn giáo. Song điều quan yếu là, mọi sinh hoạt tôn giáo ở ViệtNam đều diễn ra bình thường, không gặp bất cứ sự cản ngăn nào. Những ngày lễ của các đạo được tổ chức trang trọng theo đúng nghi tiết đạo, lôi cuốn sự tham gia đông đảo của các giáo đồ với tinh thần nô nức, yên tâm và tin tưởng.# Vào chính sách đạo và luật pháp của Nhà nước Việt Nam, song song đảm bảo trật tự an toàn xã hội.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền căn bản của con người, được ghi nhận tại Điều 18 Tuyên ngôn nhân quyền toàn thế giới năm 1948 và được phát triển đầy đủ hơn trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của liên hiệp quốc. Điều 18, khoản 3 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nói về quyền tự do đạo đã xác định: “Quyền tự do phân trần đạo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi luật pháp và khi sự giới hạn đó là cấp thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do căn bản của người khác”. Như vậy, theo ý kiến của liên hiệp quốc và cộng đồng quốc tế, mặc dù là một quyền căn bản của con người, nhưng quyền tự do tín ngưỡng, đạo không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có giới hạn. Sự giới hạn đó là cấp thiết nếu việc thực hành quyền này xâm hại tới an ninh quốc gia, trật tự từng lớp, sức khỏe cộng đồng hoặc quyền và tự do căn bản của người khác. Nói cách khác, ở tất các nước, các loại hình tổ chức tôn giáo đều được tự do hoạt động nhưng phải trong giới hạn của Hiến pháp và luật pháp. Mọi hành vi hoạt động tôn giáo gây hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm đạo đức và các quyền của người khác… đều bị cấm và nghiêm trị theo pháp luật. Bởi vậy, những kẻ lợi dụng tôn giáo để trục lợi cá nhân chủ nghĩa, thực hành những hành động chống chính quyền, gây mất ổn định trật tự xã hội thì phải bị xử lý thỏa đáng.

Chúng ta cũng thẳng thắn dìm rằng, trong những năm qua, hoạt động tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo vẫn còn một số thiếu sót ở một vài địa phương, trong một số vụ việc cụ thể. Thế nhưng, về căn bản, lãnh đạo các chức sắc đạo tại ViệtNam và đông đảo những người có lương tri trên thế giới đến thăm Việt Nam đều thừa nhận những thành tựu to lớn của nước ta trên lĩnh vực đạo.

Có thể kể đến đánh giá của Thượng nghị viên Mỹ Gim-oép-bơ (Jim Webb) sau chuyến thăm Việt Nam năm 2009 rằng: Cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân chủ nghĩa về một vài vụ việc cụ thể, song không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do đạo tại Việt Nam, nhất là từ năm 1991 đến nay. Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Ba-lê-xtre-rô trong chuyến thăm ViệtNam (tháng 2-2012) đã ghi nhận: Chính phủ Việt Nam đang cầm cố thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách coi trọng và bảo đảm tự do đạo của người dân. Ngay cả bẩm tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2012 của Bộ Ngoại giao Mỹ (công bố ngày 20-5-2013), phần đánh giá về Việt Nam cũng phải ghi nhận: “Đã có những dấu hiệu cải thiện, như cấp phép đăng ký cho các giáo đoàn mới, cho phép mở mang các hoạt động từ thiện và cho phép tổ chức các buổi lễ tôn giáo quy mô lớn với trên 100.000 người tham dự”...

Thành ra, có thể nói việc Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ đã phê chuẩn cái gọi là “Dự luật nhân quyền Việt Nam” (HR 1897) ngày 28-6-2013, do hai nghị sĩ Đảng Cộng hòa Ét Roi-xơ (Ed Royce) và Cơ-rít Xmit (Chris Smith) đề xướng là một việc làm đáng tiếc, tạo ra sự ảnh hưởng không tốt cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ.

Đại tá, TS VŨ HỒNG KHANH


Công tác công đoàn hướng về cơ sở, người lao cung cấp động

Chủ toạ Tổng LĐLĐ Việt Nam Đặng Ngọc Tùng.

Phóng viên: Xin đồng chí cho biết những đóng góp trội của Tổng LĐLĐ Việt Nam trong nhiệm kỳ vừa qua vào thành quả chung của phong trào công nhân, cần lao cả nước?

Đồng chí Đặng Ngọc Tùng: Trong nhiệm kỳ 2008 - 2013 vừa qua, các cấp Công đoàn (CĐ) Việt Nam đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động được tầng lớp đánh giá cao, nổi trội là: Chăm lo, bảo vệ các quyền, ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người cần lao (NLĐ) ngày một hiệu quả. Đẩy mạnh các hoạt động của CĐ với nhiều nội dung, hình thức hợp, thiết thực; tích cực, chủ động tham dự đóng góp quan điểm xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chế độ, chính sách, luật pháp can dự đến NLĐ; thực hành Quy chế dân chủ cơ sở. Phong trào hành động cách mệnh và thi đua yêu nước trong cán bộ, công nhân, nhân viên, cần lao (CNVCLĐ) được các cấp CĐ cả nước phát động và chỉ đạo thực hiện với nhiều nội dung phong phú, hạp từng loại hình cơ sở, đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - từng lớp, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị tổ quốc.

Về công tác tuyên truyền, giáo dục sum vầy và NLĐ có nhiều đổi mới nội dung tài liệu, hình thức, phù hợp thực tiễn của từng loại hình CĐ cơ sở, sát đời sống đoàn viên, NLĐ, đề nghị hoạt động CĐ, từng bước đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Hội tụ tuyên truyền, phổ biến, xây dựng chương trình hành động, hằng năm có đánh giá kết quả thực hành Nghị quyết số 20 của BCH T.Ư Đảng khóa X về "tiếp kiến xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH giang sơn"; Chương trình hành động của CĐ thực hiện quyết nghị; cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" gắn với thực hành nhiệm vụ chính trị, xây dựng nếp sống văn hóa trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp (DN). Chương trình "Tấm lưới tình nghĩa" vì ngư gia Hoàng Sa, Trường Sa cuộn sự hưởng ứng đông đảo, mạnh mẽ của hàng triệu lượt sum hiệp, NLĐ, tổ chức DN trong nước, ngoài nước và các cấp CĐ từ T.Ư đến địa phương, giúp hàng trăm gia đình ngư gia khắc phục khó khăn khi hành nghề trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo linh nghiệm của đất nước.

Trong nhiệm kỳ qua, cả nước tiếp thu mới được hơn ba triệu sum hiệp, thành lập mới gần 30 nghìn công đoàn cơ sở (CĐCS) . Tính đến cuối năm 2012, cả nước có hơn 7,9 triệu sum họp, hơn 114 nghìn CĐCS. Tỷ lệ CĐCS đạt tiêu chuẩn vững mạnh đạt cao. Đồng thời, các cấp CĐ bộc trực vận động cán bộ, CNVCLĐ tích cực dự xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Năm năm qua, tổ chức CĐ cả nước giới thiệu hơn 400 nghìn sum hiệp CĐ ưu tú cho Đảng coi xét, bồi bổ, phát triển Đảng. Gần 100 nghìn người được tiếp thu Đảng, trong đó công nhân lao động trực tiếp sản xuất, cán bộ CĐCS chiếm từ 8 đến 10%.

Phóng viên: Trong tình hình kinh tế giờ đang gặp nhiều khó khăn, nhiều DN giải tán, gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. NLĐ nói chung và NLĐ tại các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và bất cập. Theo đồng chí đó là những vấn đề gì?

Đồng chí Đặng Ngọc Tùng: Theo tôi, việc làm vẫn luôn là mối quan hoài hàng đầu của NLĐ. Trong những năm qua, quốc gia có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển. Bên cạnh đó NLĐ đã có những quan niệm mới, hăng hái tự tìm việc làm, vấn đề giải quyết việc làm đã bớt gay gắt hơn trước. Chương trình mục tiêu nhà nước về việc làm với nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực, hằng năm giải quyết được hơn một triệu việc làm mới cho NLĐ.

Tiếp đến là vấn đề lương, nguồn thu nhập chủ yếu của NLĐ. Từ năm 2008 đến nay, việc thực hành chính sách lương lậu mới đạt được một số kết quả bước đầu. Chính sách lương hướng trực tính được điều chỉnh, bổ sung nhưng chưa được cải tiến, đổi mới cơ bản, nên vẫn còn nhiều mâu thuẫn, bất hợp lý, rõ nhất là mức lương tối thiểu thấp, không đáp ứng được nhu cầu sống tối thiểu của NLĐ và gia đình họ. Qua năm lần điều chỉnh, tiền lương tối thiểu ở DN trong nước tăng bình quân khoảng 20,7%/năm, DN có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân khoảng 8,5%/năm, ở khu vực hành chính sự nghiệp tăng bình quân khoảng 23,8%. Lương, thu nhập thấp nên đời sống của số đông NLĐ còn nhiều khó khăn.

Nhà ở của NLĐ, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, dài ở các tỉnh, thành thị lớn, KCN, KCX vẫn là yêu cầu rất bức xúc. Ở hồ hết các KCN tụ họp không có vườn trẻ, trường mẫu giáo phục vụ việc nuôi dạy, học tập cho con của NLĐ. Dù rằng Chính phủ đã ban hành chính sách về nhà ở và một số địa phương, doanh nghiệp khai triển thực hành đạt kết quả bước đầu, nhưng vẫn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Số lao động được ở trong các khu nhà tạm cư do quốc gia và DN xây dựng chiếm tỷ lệ thấp, chỉ đạt khoảng 5%, nên hàng trăm nghìn lao động vẫn phải thuê chỗ ở, sống và sinh hoạt trong những khu nhà trọ nhất thời, thiếu thốn, không bảo đảm các điều kiện sống tối thiểu, không an toàn, dễ phát sinh các bợt từng lớp.

Phóng viên: Nhằm phát huy hơn nữa vai trò đại diện bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp, chính đáng của NLĐ, đề nghị đồng chí cho biết những hoạt động trung tâm trong nhiệm kỳ tới và những điểm mới trong công tác chỉ đạo?

Đồng chí Đặng Ngọc Tùng: Để phát huy hơn nữa vai trò đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ, nhiệm kỳ 2013 - 2018, các cấp CĐ tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản sau:

- Nghiên cứu, xây dựng và thực hành có hiệu quả Chương trình "Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và thực hành có hiệu quả thỏa ước lao động tập thể" coi đây là phương tiện quan yếu để bảo vệ quyền và ích lợi hợp pháp, chính đáng của NLĐ tại DN.

- Đề cao nghĩa vụ, vai trò của CĐ trong việc tham gia với cơ quan quốc gia xây dựng chính sách, luật pháp về kinh tế - tầng lớp, cần lao, việc làm, lương lậu, nhà ở, bảo hiểm từng lớp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động và chính sách, pháp luật khác liên tưởng đến tổ chức CĐ, quyền, bổn phận của NLĐ.

- Phát triển đa dạng các hình thức và nâng cao chất lượng chỉ dẫn, tham mưu luật pháp, giúp đỡ pháp lý, nhất là các vấn đề về quyền, nghĩa vụ của sum họp và NLĐ khi giao ước, thực hiện hiệp đồng cần lao, giao kèo làm việc với đơn vị sử dụng lao động và thực hiện tư vấn luật pháp miễn phí cho sum hiệp và NLĐ. Thực hành tốt chức năng đại diện cho cá nhân, tập thể sum hiệp và NLĐ khởi kiện tại Tòa án khi quyền, ích hợp pháp, chính đáng của họ bị xâm phạm... Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.

- Chủ động tham dự với đơn vị sử dụng lao động xây dựng, giám sát việc thực hiện thang, bảng lương, định mức cần lao, quy chế trả lương,... Quý trọng tổ chức hội thoại giữa CĐ và đơn vị dùng cần lao, giải quyết các vấn đề can dự quyền, nghĩa vụ của sum hiệp, NLĐ nhằm tăng cường quan hệ cộng tác, bảo đảm hài hòa lợi. Của DN - quốc gia - NLĐ.

- CĐ các cấp, nhất là CĐCS, CĐ cấp trên chủ động dự với cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ nghĩa có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động và bãi công chuẩn y hội thoại, hòa giải, giải quyết tại tòa án. Tổ chức và lãnh đạo làm reo theo đúng quy định của pháp luật.

- Tăng cường công tác phối hợp rà, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách, pháp luật về lao động, công đoàn, cán bộ, công chức, viên chức, bảo hiểm từng lớp, bảo hiểm y tế và chế độ, chính sách, pháp luật khác có liên tưởng đến quyền, bổn phận của NLĐ.

Để làm tốt các nhiệm vụ trên, BCH, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn chọn lọc những vấn đề mấu chốt, xác định rõ nhiệm vụ cần giao hội chỉ đạo thực hiện trong từng thời gian, tránh dàn trải; dự giải quyết, dứt điểm có hiệu quả những vấn đề bức xúc của sum hiệp, NLĐ; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, hướng về cơ sở, sâu sát với thực tiễn lao động sản xuất, công tác của sum hiệp, NLĐ; tăng cường mối quan hệ kết hợp các cơ quan, đoàn thể hệ trọng; tiếp chuyện đẩy mạnh vận dụng công nghệ thông tin trong tổ chức và hoạt động CĐ...

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí.


Công ty cổ phần Nam Dược (Khu công nghiệp Hòa Xá, Nam Định) luôn quan tâm chăm chút sức khỏe người lao động. Trong ảnh: Bữa ăn giữa ca của công nhân. Ảnh: QUANG MINH


Để hoạt động viện trợ pháp lý đạt hiệu hay quả thiết thực

Độc giả Huỳnh Phương Nam (Hà Nội): Hàng loạt các văn phòng luật sư, trọng tâm tham vấn, trợ giúp pháp lý ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu luật pháp và thực hiện các thủ tục giao dịch hành chính, tư pháp của người dân. Nhìn chung, hoạt động của hệ thống trung tâm tư vấn, giúp đỡ pháp lý dần đi vào nề nếp, góp phần không nhỏ đưa pháp luật vào cuộc sống, đẩy nhanh tiến trình thực hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta. Nhiều nơi tổ chức thành công các hoạt động giúp đỡ pháp lý miễn phí dành cho người nghèo, người khuyết tật, người có công với cách mệnh. Tuy vậy, sự phứa trong hoạt động tư vấn, giúp đỡ pháp lý có lúc, có nơi trở nên đáng lo ngại. Những bất cập, vướng mắc phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức, giám sát hoạt động của các tổ chức trạng sư, luật gia, trọng điểm tham vấn, trợ giúp pháp lý. Không ít trọng tâm ra đời hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích. Có trường hợp cán bộ viện trợ pháp lý thực hiện việc tư vấn không đúng pháp luật, thậm chí lường đảo, chân gỗ, môi giới tiêu cực hoặc làm dịch vụ viết đơn kiện thuê, xúi bẩy người dân khiếu kiện sai sự thật.

Bạn đọc Đỗ tao nhân (Kon Tum): thời kì qua, tình hình khiếu kiện kéo dài, đông người phức tạp xảy ra ở nhiều địa phương. Những khiếu kiện này cốt liên tưởng vấn đề đất đai, đền bù, phóng thích mặt bằng. Nhiều tỉnh, thành thị huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để tìm cách giải quyết dứt điểm. Trung tâm giúp đỡ pháp lý ở các địa phương cũng không đứng ngoài nhiệm vụ này. Một số địa phương giao nhiệm vụ cụ thể cho trung tâm giúp đỡ pháp lý tổ chức hoạt động lưu động tại địa bàn xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người, phức tạp. Tại đây, các cán bộ giúp đỡ khai triển việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hành đúng chủ trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước; giải đáp thắc mắc của người dân can hệ nội dung khiếu kiện. Theo tôi, muốn thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cán bộ trợ giúp pháp lý phải khai triển nhiều biện pháp "tiền trạm", như tìm hiểu thông báo về vụ việc khiếu kiện đông người; số lượng người khiếu kiện; độ "nóng" của khiếu kiện; tính chất, mức độ của sự việc khiếu kiện. Nên nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc, để từ đó hoàn thành việc trợ giúp pháp lý một cách tốt nhất.

Bạn đọc Mai Thanh Vân (Kiên Giang): Theo quy định của luật pháp, những người có đầy đủ trình độ, năng lực, kinh nghiệm nhất mực mới được tham dự hoạt động công khai trong lĩnh vực tư vấn, viện trợ pháp lý cho người dân. Vậy mà, nhiều khi người không có bằng cấp hay trình độ am tường luật pháp vẫn treo biển làm dịch vụ tham vấn pháp luật. Những cơ sở tư vấn pháp lý "chui" thường xuất hiện tại địa bàn nông thôn xa xôi, nơi còn thiếu hàng ngũ tham vấn chuyên nghiệp của chính quyền, ngành, đoàn thể. Nhằm khắc phục dứt điểm tình trạng này, nên chăng các địa phương có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để lôi cuốn trí thức trẻ tốt nghiệp những ngành luật hoặc tư pháp về công tác tại vùng nông thôn khó khăn.


Tư vấn luật pháp - "điểm tựa" của người tốt lao động

Bàn thảo với chúng tôi, ông Huỳnh Tấn Kiệt, chủ toạ LĐLĐ tỉnh Đồng Nai, cho biết: Số lượng lao động nhập cư vào tỉnh rất đông, nhu cầu tham vấn pháp luật ngày một nhiều. Vì vậy, LĐLĐ tỉnh đã có sáng kiến xây dựng lực lượng công nhân cần lao cốt cán, được chọn lọc từ những công nhân nhanh nhẹn, hoạt bát, nồng hậu để làm công tác tuyên truyền, phổ biến luật pháp. Tính đến nay, LĐLĐ tỉnh đã mở 98 lớp tập huấn, đào tạo 618 công nhân nòng cốt về tri thức pháp luật lao động, bảo hiểm tầng lớp, bảo hiểm y tế, kỹ năng tư vấn pháp luật… Sau khi được tập huấn, các công nhân nòng cốt tổ chức chương trình vui chơi, giải trí và tham vấn cho người lao động tại công ty và các khu nhà trọ. Với phương thức này, LĐLĐ tỉnh đã thành lập và mở rộng đến các địa bàn, địa phương có đông công nhân cần lao. Hiện, một số công nhân nòng cốt đã tiến bộ rõ rệt, có thể chủ động tổ chức các chương trình tham mưu lưu động.

Người cần lao được tham mưu tại Trung tâm tham mưu luật pháp Công đoàn - LĐLĐ tỉnh Đồng Nai. Ảnh: Hương Dung

Nói về công tác hỗ trợ pháp lý cho người cần lao, các đồng chí trong Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh đặc biệt ấn tượng với trường hợp công nhân Phạm Văn Nhật (Khu công nghiệp Biên Hòa 1, thành phố Biên Hòa) bị công ty không bố trí công việc theo quy định của pháp luật và không trả lương. Sau khi được tương trợ pháp lý, bảo vệ tại tòa, anh Nhật được trả số tiền 180 triệu đồng. Hay trường hợp công nhân Nguyễn Hữu Nam, làm việc tại Khu công nghiệp Nhơn Trạch 2, bị công ty kết thúc hợp đồng lao động trái luật pháp; nhờ được tương trợ pháp lý đã nhận được số tiền 65 triệu đồng…

Tìm hiểu chúng tôi được biết, để hỗ trợ tốt hơn cho người lao động ngoài giờ làm việc, Ban Thường vụ LĐLĐ tỉnh đã thành lập 3 điểm hỗ trợ công nhân tại địa bàn có đông công nhân cần lao, gồm: Phường Long Bình (thành thị Biên Hòa), xã Phước Thiền (huyện Nhơn Trạch), xã Hố Nai 3 (huyện Trảng Bom). Mỗi điểm hỗ trợ công nhân trang bị khoảng 200 đầu sách, 2 máy vi tính kết nối internet, một máy điện thoại, 7 tờ báo các loại và các bảng thông tin… để người lao động có thể đề nghị tư vấn pháp luật, tìm hiểu thông báo luật pháp mới, thông báo việc làm, kỹ năng sống… Các địa điểm hỗ trợ này đã trở thành điểm tựa, nơi gửi gắm niềm tin của người lao động trên địa bàn.

TIẾN MINH


Chia sẻ Cảm động cuốn nhật ký của liệt sĩ trở về sau 45 năm thất lạc

Theo ông Lý Quang Nhân kể lại, khoảng năm 1968, có một đơn vị lính về đóng quân tại địa phương và tạm cư tại nhà mình để hoạt động. Trước khi xuất phát đi B, một người lính cùng đơn vị với liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng đã giao lại cuốn sổ cho ông Nhân lúc đó mới 11 tuổi. Do chiến tranh, ông mất hẳn giao thông với người chiến sỹ đã trao lại cuốn sổ cho mình. Cuốn sổ được tác giả ghi chép lại nhiều câu châm ngôn về cuộc sống và những bài thơ tự sáng tác. Ông Nhân vẫn luôn giữ cuốn nhật ký bên mình và đã thuộc nhiều đoạn, nhiều câu và cho bạn bè chuyền tay nhau cùng đọc.

Mở màn, liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng viết những dòng đầy nhiệt huyết, hào hùng: "Người chiến sỹ cách mệnh chẳng khác nào người vượt đại dương trong mưa bão. Ai chịu đựng, không hề xuýt xoa run rẩy mới tới được chân mây nắng ấm. Nếu để đến khi áo đủ cơm đầy, hoa cười chim hót, lúc đấy là lúc cách mạng thành công, mới ra tay tung hoành chẳng khác nào én nhạn chiều đông muốn bay mà không cất cánh nổi".

Cuốn nhật ký đã được thanh niên xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình chuyền tay nhau rồi biên chép lại. Cho tới năm 1980, do có quá nhiều người mượn chuyền tay nhau đọc, cuốn nhật ký đã bị thất lạc. Ông Nhân khôn xiết day dứt, đã kiên tâm bằng mọi cách phải tìm lại bằng được. Sau nhiều lần hỏi thăm bạn bè, ông phát hiện quyển nhật ký bị bỏ quên trong hộp đàn của người bạn đã mất. Điều thật lạ, chiếc hộp đàn bị mối ăn nhưng cuốn sổ vẫn còn nguyên vẹn.

Ông Lý Quang Nhân trao lại cuốn nhật ký cho gia đình liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng.

Qua năm tháng, những nét chữ của cuốn nhật ký không tránh khỏi phai mờ, giấy đã mục nát. Mỗi dòng văn, dòng thơ được tác giả viết rất nắn nót. Đọc nội dung ghi trong cuốn sổ, ông Nhân phán đoán liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng quê ở Hải Phòng, bởi trong một bài thơ của anh có câu: "Quê mình Nam Triệu, Đồ Sơn". Dựa vào thông báo ít oi đó, ông Nhân đã viết thư gửi tới Sở LĐ-TB&XH Hải Phòng, Tỉnh đội Quảng Bình, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Quảng Bình và được biết, mộ phần của liệt sĩ đã được chuyển về quê nhưng không rõ ở đâu.

Tra hỏi thông tin trên mạng Internet, ông Nhân đã gửi một bức thư điện tử đến các cơ quan chức năng và trọng tâm MARIN, nội dung: "Lưu Mạnh Hùng là một đội viên cách mạng kiên cường, bất khuất, vững vàng lý tưởng, một trí thức tuấn kiệt và là người có trái tim nồng nàn, yêu đời, yêu người. Những lời anh viết, nếu ai đã thoáng qua thì chẳng thể không tò mò, không thể không đọc và bị cuốn hút ngay bởi những tâm tư, suy nghĩ nặng lòng với nước, với quê hương, gia đình, với tình người, tình đời..., Những trằn trọc của một chàng trai trẻ đang sục sôi nhựa sống".

Bằng các biện pháp nghiệp vụ, trọng tâm MARIN đã gieo rắc dữ liệu và rà thông báo về liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng. Anh đã hy sinh ngày 26-5-1968 tại Quảng Bình. Trọng điểm tiếp chuyện liên tưởng với Sở LĐ-TB&XH Hải Phòng và được biết: Em trai của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng là ông Lưu Mạnh Dũng, hiện đang sống tại số nhà 11/75 đường Cát Bi, phường Cát Bi, quận Hải An, Hải Phòng.

Ngày 22/7, sau đúng 45 năm, cuốn nhật ký đã trở về quê hương. Buổi trao lại cuốn nhật ký của liệt sỹ cho gia đình đã diễn ra trong không khí trọng thể và khôn cùng xúc động. Nhận lại kỷ vật kí từ tay ông Nhân, gia đình liệt sĩ Hùng vô cùng cảm động. Ông Lưu Văn Sắc (bố liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng) năm nay 85 tuổi đã òa khóc vì xúc động khi nhận cuốn nhật ký của con trai. Ông Sắc nghẹn ngào cảm ơn ông Nhân cùng các cơ quan, đơn vị đã giúp gia đình tìm lại được di vật của con trai. Các thành viên trong gia đình cũng khôn cùng ngỡ ngàng, xúc động bởi đây chính là di vật duy nhất còn lại của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng. Được biết, sau khi liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng hy sinh, đơn vị cũng gửi một số kỷ vật của anh về gia đình.

Cuốn nhật ký của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng.

Tuy nhiên, năm 1972, khi Mỹ ném bom B52 rải thảm miền Bắc, ngôi nhà bị đánh sập, và tuốt tuột đã bị phá hủy. Ông Lưu Văn Sắc cho biết: Mộ phần của liệt sĩ hiện vẫn chưa tìm được. Cuốn nhật ký này với ông hết sức quý giá...

Phóng viên Báo CAND khôn xiết cảm động được cầm trên tay cuốn nhật ký của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng dày gần 80 trang, được viết cách đây trên 4 thập kỷ, vẫn những câu nói của các danh nhân trên thế giới, đặc biệt là Karl Marx, F. Engels, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vần thơ của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên và rất nhiều danh nhân bản hóa, các nhà văn, thi sĩ lớn. Đặc biệt trong đó là những tâm can miêu tả trách nhiệm lớn lao của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; những tình cảm da diết về tình bạn, tình yêu đôi lứa với một cảm xúc thực tâm hết mực... Người đọc bị suýt nữa bởi những tâm can, suy nghĩ nặng lòng với giang sơn, quê hương, gia đình, tình người và tình đời...


[Tư vấn pháp luật] Công an cập nhật hình sự có được phép thẩm tra giấy đăng kí kinh doanh của công ty?

Nguyễn gu hieutckh2006@gmail.Com

Chào bạn,

Liên hệ đến vấn đề bạn quan hoài, PLF xin trả lời như sau:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật Doanh nghiệp thìGiám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty cổ phần chỉ không được song song làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệpkhác.

Thêm vào đó, theo khoản 1 Điều 50 Nghị định 43/2010/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp thì công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực luật pháp và năng lực hành vi dân sự đầy đủ đều có quyền thành lập hộ kinh dinh và có trách nhiệm đăng ký hộ kinh dinh theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, họ chỉ được đăng ký một hộ kinh dinh ở phạm vi trong nước. Nên chi, Giám đốc công ty cổ phần nếu chưa đăng ký một hộ kinh doanh nào tại Việt Nam thì vẫn được đứng tên chủ hộ kinh dinh cá thể.

Trân trọng!

Câu hỏi 2: Công an hình sự có được quyền kiểm tra giấy phép kinh dinh của công ty không? Công an hình sự chỉ đưa thẻ chứng minh công an thôi.

Pham thi huyen phamhuyen8312@gmail.Com

Chào bạn,

Hệ trọng đến vấn đề bạn quan hoài, PLF xin có ý kiến như sau:

Do câu hỏi của bạn đưa ra không đầy đủ chi tiết nên PLF chẳng thể đáp cho bạn một cách đầy đủ. Tuy nhiên, PLF xin được đưa ra quan điểm sau:

Việc công an nhân dân (bao gồm công an hình sự)soát giấy phép kinh dinh của cần phải có mục đích rõ ràng và theo lớp lang hợp pháp.

Về nguyên tắc, hoạt động của công an quần chúng. # Phải được tiến hành theo điều lệnh do ngành quy định, và tùy vào từng chức phận và cấp bậc của mình mà công an có những quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể.

Do đó, bạn có quyền được biết vềmục đích thẩm tra giấy phép kinh dinhcũng nhưchức vụ, quyền hạn của công an đóđể hợp tácvới họ.

Trân trọng!

PLF

Theo Trí Thức Trẻ


Bộ Tư pháp tổng kết quyết nghị số 49-NQ/TƯ: mới Kiến nghị làm rõ một số vấn đề quan trọng

Tới dự có đại diện Ban chỉ đạo cách tân tư pháp Trung ương (CCTPTƯ), đại diện Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC, Hội Luật gia và một số bộ, ngành có liên quan.

Theo bẩm của Bộ Tư pháp, sau hơn 8 năm thực hành, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo sát việc thiết chế hóa đầy đủ và đúng đắn các định hướng, giải pháp CCTP theo ý thức NQ số 49. Thống kê ban đầu cho thấy, từ tháng 6/2005 đến 6/2013 có tới 63 văn bản (chiếm tỷ lệ 35%) trực tiếp hệ trọng đến CCTP. Bộ Tư pháp cũng đã chủ trì soạn thảo 22/23 dự án luật, pháp lệnh, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ xây dựng thể chế về tổ chức hoạt động của ngành. Bộ cũng đã bạo dạn triển khai chủ trương tầng lớp hóa hoạt động bổ trợ tư pháp. Đội ngũ luật sư càng ngày càng lớn mạnh, sự ra đời của Liên đoàn trạng sư đã đánh dấu một bước phát triển mới trong lĩnh vực này. Tính đến tháng 6/2013, trên cả nước đã thành lập 62 đoàn trạng sư/63 đô thị với 8.500 luật sư và 3.500 người thực tập hành nghề luật sư. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của nghề công chứng đã chứng minh từng lớp hóa công chứng là đúng đắn. Tính đến nay, cả nước có 1.734 công chứng viên hoạt động trong 675 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 135 phòng công chứng và 536 văn phòng công chứng. Rưa rứa, công tác thẩm định tư pháp cũng đã có một bước phát triển một mực, phục vụ cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng…

Bộ trưởng Hà Hùng Cường phát biểu tại hội nghị

Tuy nhiên, quá trình thực hành NQ số 49 cũng có những hạn chế, yếu kém như: Việc xây dựng dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm chưa toàn diện, đồng bộ; thiếu dự báo mang tính chiến lược và sự ưu tiên trong việc giải quyết những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội; tư duy, kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực luật pháp hình sự, năng lực dự báo tình hình tội nhân chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế - từng lớp; công tác thi hành án chưa đáp ứng được yêu cầu, kể cả về tiến độ thực hành cũng như chất lượng hàng ngũ cán bộ; số lượng cán bộ, công chức, trong đó có cả lãnh đạo quản lý vi phạm, bị kỷ luật còn nhiều.

Vắng cũng nêu ra những căn do của những hạn chế đó là: các mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ CCTP trong NQ số 49 là những chủ trương mang tầm chiến lược và khá đồng bộ nhưng việc khai triển trên thực tiễn lại không đồng bộ. CCTP còn chậm và còn chưa theo kịp so với cải cách lập pháp và cách tân hành chính; những nhiệm vụ chính, được coi là trung tâm, đột phá chưa có bước chuyển biến đáng kể, gây khó khăn cho việc thực hành CCTP. Bên cạnh đó, nhận thức về chủ trương CCTP của các cấp các ngành chưa hợp nhất, đầy đủ. Năng lực tổ chức triển khai, điều kiện nguồn nhân công còn hạn chế, chưa ngang tầm với chiến lược CCTP.

Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, qua tổng kết thấy rằng nhiều chủ trương CCTP được xác định trong NQ 49 là đúng đắn, minh mẫn như tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử; thống nhất quản lý thi hành án; tầng lớp hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp… nên, sau khi tổng kết, Bộ sẽ kiến nghị Ban chỉ đạo CCTPTƯ chỉ đạo quyết liệt công tác tổng kết, đưa ra những kết luận, kiến nghị rõ ràng về từng chủ trương, định hướng đúng đắn, song song yêu cầu dừng, không thực hiện những chủ trương, định hướng không còn hiệp với sự phát triển của đất nước giai đoạn 2030.

Mai Thoa


Phạm nhân háo thêm hức nghe tư vấn pháp luật

Đây là chương trình Hành trình của niềm tin, do Hội LHTN TP.HCM kết hợp với Công an TP.HCM, trọng tâm tham vấn pháp luật và đào tạo ngắn hạn thuộc Trường ĐH Luật TP.HCM, Trung tâm Hướng nghiệp dạy nghề và giải quyết việc làm Thanh niên tổ chức.

Những nội dung được tư vấn là: nhập lại hộ khẩu và làm lại CMND sau khi ra tù, thủ tục xóa án tích, những vấn đề can dự đến tài sản; tư vấn về thông báo tuyển dụng, địa chỉ tìm việc, chuẩn bị hồ sơ tìm việc - phỏng vấn…


Sinh viên Câu lạc bộ thực hiện luật pháp Trường ĐH Luật TP.HCM tận tâm hướng dẫn tội nhân cách làm tờ khai nhân khẩu, đơn xin cấp CMND, đơn xin xóa án tích.

Chương trình kéo dài đến hết ngày 26.7.

Tin, ảnh:Như Lịch


Hoàn tất việc chấm dứt hợp đồng cần lao với bà Trần Thị Phượng theo đúng luật

Sau khi Văn phòng chuyển đơn của bà Phượng, ngày 26.6.2013, Bưu điện tỉnh đã có văn bản phúc âm. Theo đó, sau 2 năm chuyển công tác, ngày 10.12.2012, bà Phượng có đơn đề nghị giải quyết chế độ kết thúc HĐLĐ giữa Bưu điện tỉnh và cá nhân bà. Ngày 17.1.2013, Bưu điện tỉnh đã có CV trả lời các nội dung bà Phượng đề nghị. Chưa nhất trí với các nội dung đáp, bà Phượng nối có đơn ngày 1.3.2013 yêu cầu Bưu điện tỉnh đính chính lại một số thông tin tại CV số 53/BĐNĐ-TCHC và yêu cầu giải quyết chế độ chấm dứt HĐLĐ. Do sờ soạng hồ sơ cá nhân Bưu điện tỉnh đã bàn giao lại cho bà Phượng, nên việc trả lời một số thông báo can dự còn chưa xác thực. Cho nên, Bưu điện tỉnh đã xác minh lại nội dung trên.

Ngày 19.6.2013, Bưu điện tỉnh đã mời bà Phượng về làm việc và hai bên thống nhất lại các nội dung: Đính chính lại thời kì vào ngành, được tính từ ngày 1.4.1994 theo HĐLĐ số 153 ngày 28.12.1993, còn thời kì 1.5.1995 là thời kì bắt đầu tham gia BHXH; đính chính lại thời gian cử đi học lớp trung cấp: cứ QĐ số 75 ngày 2.11.1994 của BĐ Nam Định cử đi học trung học đương chức từ tháng 11.1994, còn năm 1996 được cắt cử làm việc tại Bưu điện tỉnh thành; về chế độ trợ cấp thôi việc: Bưu điện tỉnh tán thành hoàn tất thủ tục kết thúc HĐLĐ giữa Bưu điện tỉnh và bà Phượng kể từ ngày 1.1.2011, song song trả chế độ trợ cấp thôi việc cứ vào hồ sơ cá nhân chủ nghĩa theo đúng quy định của Bộ luật Lao động.


Khẳng mới định lại chức năng công đoàn

Tuy nhiên, hoạt động CĐ cũng còn những hạn chế lỗi. Nổi rõ nhất là không có CĐ cơ sở nào lãnh đạo làm reo; số nơi ký kết TƯLĐTT còn thấp, chất lượng chưa cao. Vắng của BCH Tổng LĐLĐVN khóa X đã chỉ rõ nguyên cớ trước tiên là do một bộ phận sum họp, NLĐ và cán bộ CĐ chưa có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của CĐ. Có nhẽ chừng nào chưa giải quyết rốt ráo nhận thức về chức năng thì CĐ chưa dễ khắc phục hạn chế, tội trong hoạt động.

Chỉ vài tháng gần đây, đã có không ít phát biểu của cán bộ CĐ tỏ ra không nhận thức rõ chức năng của CĐ, nói nôm na là không biết chỗ đứng của CĐ ở đâu! Xin nêu vài thí dụ: Một cán bộ CĐ sau đợt công tác thực tiễn, đã rút ra bài học kinh nghiệm để phổ thông bằng bài viết có tựa đề “Biết “đồng cam cộng khổ” cùng DN và NLĐ”. Bài viết kết luận: “Rõ ràng, khi tổ chức CĐ biết “đồng cam cộng khổ” với DN và NLĐ thì sẽ trở nên người đồng hành tin của cả NLĐ và DN”.

Một lần khác, nhà báo phỏng vấn một chuyên viên cao cấp của CĐ dưới tiêu đề “Cả DN và NLĐ chưa tận dụng vai trò của CĐ”. Qua cách nói như trên cho thấy, những cán bộ này đặt tổ chức CĐ như một thực thể riêng biệt với NLĐ; hoặc là đặt tổ chức CĐ đứng giữa, làm trọng tài cho “cuộc đấu” của NLĐ với chủ DN! Chắc rằng, 15 triệu NLĐ khi đọc những dòng trên sẽ kêu lên: “Nhầm lẫn rồi! CĐ phải là người đại diện riêng cho chúng tôi!”.

Cán bộ CĐ nên nhớ rằng, mình là đại diện của hơn 10 triệu NLĐ đang hưởng mức lương tối thiểu chưa bằng 60% mức sống tối thiểu, hơn 94% số người phải làm thêm giờ, khoảng 30% bị suy dinh dưỡng, gần 20% thiếu máu, 70% thiếu iốt... Để biết mình phải làm gì để thiết thực chăm lo cho họ. Chủ DN đề nghị CĐ làm cho công nhân hiểu rõ những khó khăn của họ để thông cảm, đừng có yêu sách quá quắt. Đồng ý thôi, nhưng trước hết, CĐ khuyên họ đừng như ở Cty Đạt Việt (KCX Tân Thuận), cứ mỗi lần yêu cầu nâng lương thì kêu đang bị lỗ. Nhưng có lỗ thật hay không thì chỉ có GĐ mới biết! thành thử, khi chưa biết thực hư ra sao thì CĐ chớ vội lo giùm DN”!

Năm 1993, trước thềm Đại hội VII, Đoàn chủ toạ Tổng LĐLĐVN khóa VI đã tổ chức hội thảo về chức năng CĐ. Có hai phản biện rất đáng nhớ. Anh hùng cần lao Cao Thị Ngoãn - UV BCH Tổng LĐLĐVN - nêu câu hỏi: “Từ nay, giữa 2 nhiệm vụ “làm sợi dây nối liền giữa Đảng với quần chúng” và “bảo vệ ích lợi NLĐ” cái nào được coi là chức năng?”.

Đồng chí Thừa - UV BCH Tổng LĐLĐVN - lại hỏi: “CĐ như một người phải ngồi trên hai chiếc ghế: ích công nhân và ích chung. Làm reo thì ảnh hưởng lợi ích chung, còn trả lương không đủ sống thì có hại cho NLĐ. Vậy phải chọn chiếc ghế nào trước?”. Một giảng sư Đại học CĐ cho rằng: “Chức năng là thuộc tính được hệ thống chính trị phân công.

“Bảo vệ ích lợi” không phải là chức năng mà chỉ là hoạt động thực tiễn. Phản biện lại, một nhà báo trích dẫn ý kiến Lênin khi Liên Xô thực hiện chính sách kinh tế mới: “Nhiệm vụ chính của CĐ là bảo vệ lợi. NLĐ chống những méo mó quan lại của Nhà nước và chống lòng tham vô độ của các nhà tư bản mà quốc gia chưa kiểm soát được”. Đoàn chủ toạ kết luận: “Nếu CĐ không bảo vệ được lợi ích của NLĐ thì cũng không thể làm được sợi dây nối liền giữa Đảng với NLĐ. Do đó bảo vệ lợi. NLĐ là nhiệm vụ trước tiên, là chức năng của CĐ”.

Năm 2012, trong cuộc trao đổi xây dựng Luật CĐ mới, đồng chí Đặng Ngọc Tùng đã kết luận: “Trong thực tiễn, Tổng LĐLĐVN và các cấp CĐ đã và đang thực hành chức năng đại diện bảo vệ quyền và ích hợp pháp, chính đáng cho CNVCLĐ. Mặt khác, về lý luận, đại diện là chức năng bẩm sinh của CĐ. CĐ sinh ra là để đại diện, bảo vệ quyền và lợi. Hợp pháp, chính đáng của NLĐ”. Quan điểm này cần được tiếp kiến quán triệt trong hệ thống CĐ cả nước.(Còn tiếp)


Phòng chống tham nhũng: Phải bịt kín "kẽ hở" bổ xung pháp luật



Và chừng nào chưa có dụng cụ cũng như các hình thức đắc dụng để phát hiện ra các dấu hiệu tham nhũng thì việc tiến hành điều tra, chống chọi và xử lý tham nhũng khó đạt hiệu quả cao.

Xây dựng cơ bản là một trong những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Ảnh: Như Ý



Ít vụ chuyển cơ quan điều tra

Tại phiên giải trình "Việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng thuộc bổn phận của các cơ quan hành chính quốc gia" do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức ngày 18-7, Tổng Kiểm toán quốc gia Nguyễn Hữu Vạn cho biết: thời đoạn 2009-2012, Kiểm toán quốc gia đã kiểm toán 104 các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước. Từ kết quả kiểm toán, đã điều chỉnh giảm tổng tài sản, nguồn vốn 8.501 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 3.986 tỷ đồng. Dù rằng vậy, với nghiệp vụ cán bộ, cơ chế hiện hành để phát hiện hành vi sai phạm đúng với bản tính sự việc không đơn giản. Đây là nguyên do dẫn tới số vụ việc chuyển sang cơ quan điều tra còn hạn chế.

Cùng với Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ được Chính phủ, Quốc hội coi là cơ quan chủ lực trong phòng chống tham nhũng, nhưng kết quả thu về chưa được như mong muốn. Theo thông tin mới nhất, năm 2009 tổng số tiền tham nhũng bị phát hiện trên 700 tỷ đồng, nhưng nay mới thu hồi 350 tỷ đồng. 6 tháng đầu năm 2013, kết quả có khá hơn, ngành thanh tra đã phát hiện 73 vụ, 80 đối tượng có hành vi liên tưởng đến tham nhũng với số tiền 117 tỷ đồng, yêu cầu thu hồi 115 tỷ đồng (đã thu hồi 59 tỷ đồng); kiến nghị xử lý bổn phận 3 người đứng đầu, phạt hành chính 4 tập thể và 28 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra hình sự 11 vụ, 34 đối tượng. Tuy nhiên, theo Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kết quả trên vẫn chưa đề đạt đúng tình hình tham nhũng bây chừ.

Khó phát hiện vì mánh lới tinh tướng

Một trong những vấn đề đang được dư luận quan tâm, đặt nhiều dấu hỏi là từng xuất hiện vụ việc lực lượng thanh tra không phát hiện ra tham nhũng, sau đó cơ quan điều tra, báo chí và quần chúng tố cáo lại phát hiện tham nhũng nhưng việc xử lý tiếp theo còn hạn chế. Đang nổi lên tình trạng có kết luận của Thanh tra Chính phủ chưa đảm bảo tính khả thi, gây khó khăn trong quá trình thực hiện, bị đối tượng thanh tra thắc mắc, phản ứng.

Lý giải về bất cập này, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết, quá trình thanh tra phải thực hiện nhiều mục đích nhưng thời kì có hạn, hành vi tham nhũng lại tinh tướng nên rất khó phát hiện. Bên cạnh đó, năng lực, chất lượng cán bộ thanh tra còn hạn chế. Ngay trong nội bộ Thanh tra Chính phủ từ năm 2009 đến nay đã xử lý 11 trường hợp vi phạm có can hệ đến hành vi tham nhũng. Do đó, Thanh tra Chính phủ sẽ tăng cường giám sát cán bộ, công khai, sáng tỏ hoạt động thanh tra. Trước mắt, Tổng Thanh tra Chính phủ đã chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ phát hiện sai phạm đến đâu chuyển cơ quan điều tra nghiên cứu đến đó mà không chờ kết luận thanh tra. Tuy nhiên, khuynh hướng liên kết, hình thành tổ chức phạm tội trong các khu vực, lĩnh vực kinh tế càng ngày càng tăng; tính chất tham nhũng ngày một phức tạp; đối tượng thực hiện thường có chức vụ, có khả năng giấu giếm hành vi vi phạm. Thế nên, để chứng minh động cơ vụ lợi trong việc cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, vững chắc sẽ còn khó khăn, cần sự vào cuộc của nhiều cấp, ngành.

Tán thành với quan điểm này, Thứ trưởng Bộ Tài chính Phạm Sỹ Danh cho biết, ở lĩnh vực quản lý ngân sách, quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước, hành vi tham nhũng cốt tử là lập hợp đồng khống để chiếm đoạt, nâng khống giá khi mua bán vật tư, tài sản, hay chuyển lợi nhuận cho các công ty "sân sau" để trục lợi. Sở dĩ có tình trạng này là do một số cơ quan coi nhẹ việc xử lý, thiết chế - chính sách quản lý tài chính, tài sản Nhà nước còn sơ hở. Trên lĩnh vực đầu tư, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Hiếu nhận định, khâu phân bổ vốn, xác định chủ đầu tư dự án, công tác đấu thầu, giám sát và sử dụng nguồn vốn ODA dễ nảy thụ động nhưng biện pháp ngừa thiếu đồng bộ. Thế nên, bên cạnh nâng cao chất lượng cán bộ, cần bịt kín các lỗ hổng cơ chế.

Với quy định hiện hành, để phát hiện được dấu hiệu tham nhũng cần có đầy đủ thông tin và cứ pháp lý. Tuy nhiên, để thực hành điều này không dễ vì việc công khai minh bạch, giải trình hoạt động ở các đơn vị còn hình thức đối phó. Trong khi đó, ngồi không ít tỉnh, đô thị, đối tượng tham nhũng lại là người có chức phận, am hiểu các kẽ hở luật pháp, được tiếp cận nhiều thông báo, lại có điều kiện kinh tế, có quan hệ rộng. Chưa có một cơ quan quản lý quốc gia nào thông qua công tác rà soát việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi mình quản lý hoặc tự thẩm tra mà phát hiện ra tù túng tham nhũng. Khi đã khó phát hiện ra bệnh tham nhũng thì chẳng thể chữa được bệnh. Vì thế, để phòng tham nhũng hiệu quả, việc đầu tiên cần làm là bịt kín các "kẽ hở" luật pháp.


Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Rèn luyện kỹ năng cho học trò vào môi trường tập mới

Theo dõi sự tăng trưởng giống lạc, đậu xanh cho năng suất cao và chống chịu sâu bệnh tại Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ - Nghệ An.

Ngày 30-7, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành công văn hướng dẫn tổ chức "Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học tại các cơ sở giáo dục". Mục đích giúp học trò làm quen với các kiền, cô giáo và bạn bè; tạo nên môi dài tập và đoàn luyện hăng hái, hiệu quả.

Phê duyệt các hoạt động tập thể để nâng cao nhận thức của học sinh về truyền thống của nhà trường, đoàn luyện một số kỹ năng cần thiết khi bước vào môi trường tập mới.

Việc tổ chức các hoạt động phải phù hợp điều kiện nhà trường, gắn với thực tại của địa phương, có tác dụng hiệu quả đối với học sinh, nhất là học trò đầu cấp học. Ngoại giả, cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự quản của học trò, gắn với các hoạt động chung đầu năm học của nhà trường.

PV

Chương trình giao lưu văn hóa, nghệ thuật "Bước ra ánh sáng"

Từ ngày 2 đến 4-8, Viện Gớt Hà Nội cùng một số đơn vị xã hội và nghệ thuật kết hợp tổ chức chương trình "Viet Pride 2013 - Bước ra ánh sáng". Đây là một sáng kiến với mục đích nâng cao nhận thức và sự cảm thông của tầng lớp đối với sự đa dạng giới tính, đồng thời tiếp thêm sức mạnh cho cộng đồng người đồng tính, song tính, chuyển giới.

Chương trình gồm nhiều hoạt động phong phú, đa dạng như: các buổi chiếu phim với các đề tài liên tưởng, các buổi chuyện trò, đàm thoại, đạp xe diễu hành, trò chơi tập thể... Một số khách mời tham gia giao lưu, chia sẻ như Mai-ka E-lan (nữ nghệ sĩ nhiếp ảnh từng đoạt giải ảnh báo chí thế giới), Nguyễn Ngọc Thạch (tác giả của nhiều cuốn sách về thiên hướng giới tính đặc biệt). Điểm nhấn sẽ là buổi trình diễn của nhà thiết kế Trung Anh, một trong sáu người dẫn đầu của Project Runway Việt Nam. Các hoạt động trong chương trình đều vào cửa tự do, tham dự miễn phí.

PV

Nâng cao hiệu quả hoạt động trọng điểm văn hóa, nhà văn hóa

Ngày 30-7, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên - Huế tổ chức hội nghị về "Thực trạng và giải pháp tổ chức hoạt động của các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế". Thừa Thiên - Huế hiện có 782 trọng điểm văn hóa, nhà văn hóa. Tuy nhiên, phần lớn các thể chế văn hóa này đang gặp nhiều khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến chức năng và chất lượng hoạt động. Nhiều thiết chế văn hóa từ tỉnh đến cơ sở đã được xây dựng mới nhưng trên thực tiễn đều không phát huy hiệu quả; nhiều nơi sử dụng không đúng mục đích, đóng cửa nhiều hơn mở; nhiều điểm xây dựng lâu đời, cơ sở vật chất đã xuống cấp, trang thiết bị thiếu thốn, không đồng bộ, diện tích không đáp ứng yêu cầu.

Hội nghị đã tập kết bàn thảo các vấn đề hệ trọng để có cái nhìn toàn diện, cụ thể nhằm đánh giá đúng thực trạng về tổ chức và hoạt động của các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa trên địa bàn tỉnh; xác định nguyên do, đề xuất nhiều giải pháp thiết thực; đặt ra vấn đề khai khẩn, sử dụng...

PV


Hoảng với những khóa đào tạo "lạ" tại Trung Quốc

Những thiếu nữ xinh đẹp trong lò luyện vệ sĩ nữ tại Trung Quốc

Đào tạo vệ sĩ nữ kiểu có 1-0-2

Đầu năm 2012, tại tỉnh Hải Nam, Trung Quốc đã tiến hành một khóa đào tạo vệ sĩ nữ với chế độ huấn luyện độc nhất. Trong 4 tuần đầu, các cô gái đến đây chỉ được mặc bikini phong phanh giữa trời giá rét, đi trên bụng của những người bạn nằm trên cát, bị xối nước lã vào người, chạy bộ giữa biển… 20 học viên nữ này được đào tạo trong 10 tháng để rèn luyện các kỹ năng võ thuật, trinh sát viên. Tuy nhiên cách đào tạo khắc khổ này khiến họ trông như đang bị bạo hành.

Những thiếu nữ xinh đẹp trong lò luyện vệ sĩ nữ tại Trung Quốc (Ảnh Chinanews)

Mẫu giáo “quân sự”

Ở trường mẫu giáo Albert tại Đài Trung, Đài Loan, trẻ mỏ từ 3 đến 6 tuổi được mặc trang phục giống như hải quân và tham dự vào một chương trình thể dục buộc theo mô hình tập trận. Bố mẹ các bé hy vọng việc đào tạo cứng rắn này sẽ chuẩn bị cho con em họ những hành trang trước khó khăn của cuộc sống nhưng có những người chỉ trích trường mẫu giáo này.

Các bé uốn dẻo, nhào lộn như những quân lính thủy quân lục

Từ một đến hai giờ mỗi ngày, các em tại trường mẫu giáo này phải thực hành một loạt các bài tập thể dục lấy cảm hứng từ cuộc tập trận quân sự. Cô giáo Fong Yun cho rằng trẻ em Đài Loan thiếu sự tự tin và lòng dũng cảm so với con trẻ các nước khác. Nên chi hơn 10 năm trước, cô đã phát triển một chương trình đặc biệt, phối hợp giữa việc thể dục và những cuộc tập trận để tăng cường sức mạnh thể chất và ý thức cho các em nhỏ.

Con nít mẫu giáo ở đây được học để có thể uốn dẻo, nhào lộn vài vòng, trồng cây chuối… và các loại bài tập khác mà ngay cả thủy quân lục chiến đôi khi còn thấy khó. Để “tốt nghiệp” trường này, các em phải sang trọng một bài thẩm tra khó khăn.

Video: Trẻ ở trường mẫu giáo Albert được đào tạo như thủy quân

Hầu hết những đứa trẻ đi mẫu giáo “quân sự” của Đài Loan thích khoe “chiến lợi phẩm” của mình là những vết bầm tím, những vết chai do những bài đào tạo khắc nghiệt. Nhưng một số tổ chức giáo dục đã thanh minh mối quan hoài của họ về tác động của những phương pháp huấn luyện đó. Họ lo sợ việc đào tạo quá mức có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ nhỏ hoặc gây thương tích nghiêm trọng. Tuy nhiên, cô Fong Yun cho biết các bài tập được tiến hành bởi các giảng sư chuyên nghiệp nên nguy cơ chấn thương được giảm tối thiểu.

Đạt đến giới hạn tuyệt đối

Chế độ đào tạo khắc nghiệt có thể tạo ra những kết quả thất thường. Trên You tube đã xuất hiện một clip quay lại cảnh một nhóm khoảng dưới 20 cô gái Trung Quốc thực hiện bài tập kết hợp giữa múa ba lê và thể dục phương tiện. Họ uốn cong thân thể mình một cách đáng ngạc nhiên. Sự đồng bộ, nhanh, mạnh cho thấy sức mạnh phi thường.

Những động tác uốn dẻo như "người không xương"

Đạt đến giới hạn tuyệt đối

Video: Bài tập đáng sửng sốt của các thiếu nữ Trung Quốc

Trung Quốc được biết đến với những “lò đào tạo” tàn tệ của mình trên khắp đất nước. Những bé trai và bé gái lên 5 hoặc 6 được thẩm tra có tổ chất thể thao bẩm sinh sẽ được đưa vào 1 trong 3000 trại huấn luyện thể thao kiểu mới. Khi Olympic 2012 được diễn ra tại Trung Quốc, không ít những câu chuyện có thật về những “cỗ máy chiến thắng” được sinh ra từ những “trại tập trung” khắc nghiệt của chế độ đào tạo.

Quan sát viên của Olympic, Sir Matthew Pinsent đã gọi đây là “trải nghiệm đáng sợ” khi thấy những đứa trẻ được Trung Quốc huấn luyện thành vận cổ vũ. Chắc hẳn những bé gái của “vũ đoàn đạt đến giới hạn tuyệt đối” trên đã sang trọng những chương trình đào tạo khắc nghiệt mới có thể thực hiện được bài tập hoàn hảo đến thế.

Các em bé Trung Quốc đớn đau vì những "trải nghiệm đáng sợ"


Khởi động với Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học: Linh hoạt, sáng tạo

Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học Vũ Đình Chuẩn

Tuy nhiên, trên thực tại, vẫn không ít trường chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của hoạt động này, thực hành chỉ đạo của Bộ GD&ĐT còn hình thức, chưa thật sáng tạo.

BáoGiáo dục và Thời đạiđã có cuộc luận bàn với ông Vũ Đình Chuẩn về vấn đề này trước thềm năm học mới 2013 - 2014. Khẳng định đây là hoạt động vô cùng quan yếu trong nhà trường, ông Chuẩn cho biết:

Mục đích của Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm học” nhằm giúp học trò làm quen với thầy cô giáo, bạn bè, điều kiện học tập và rèn luyện; làm quen với phương pháp dạy học và giáo dục trong nhà trường ở lớp học mới, cấp học mới; tạo nên môi dài tập và rèn luyện thân thiện, hăng hái và hiệu quả; tạo tình cảm, niềm tin của học trò đối với trường, lớp, thầy cô và bạn bè. Từ tình cảm và niềm tin này, các em sẽ có động lực học tập và rèn luyện tốt hơn.

Bên cạnh đó, phê chuẩn các hoạt động tập thể để nâng cao nhận thức của học sinh về truyền thống của nhà trường; tiếp cận với các điều kiện về cơ sở vật chất, điều lệ, qui chế, nội quy, qui tắc ứng xử và các quy định khác liên tưởng của nhà trường, để học sinh hiểu rõ lợi quyền, nghĩa vụ, ý thức nghĩa vụ của mình; đoàn luyện một số kỹ năng cần thiết khi bước vào niên học mới, môi trường tập mới.

Ông có thể cho biết rõ hơn về yêu cầu tổ chức những hoạt động này trong nhà trường?

- trước nhất, việc tổ chức các hoạt động trong “Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học” phải phù hợp với điều kiện nhà trường, đặc dằn bụng sinh lý học trò, gắn với thực tại của địa phương; thực sự có tác dụng, hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là học trò đầu cấp học; tạo được niềm tin cho học sinh và không khí vui tươi, háo hức trong nhà trường.

Bên cạnh đó, các hoạt động trong “Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm học” cần phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự quản của học trò, gắn với các hoạt động chung đầu niên học của nhà trường, đặc biệt là các hoạt động xây dựng trường học thân thiện, học sinh hăng hái.

Các nhà trường cần tranh thủ sự chỉ đạo, hỗ trợ và kết hợp của đại diện Đảng, chính quyền, chiến trận, đoàn thể địa phương, đại diện các đời học sinh của trường nay đã trưởng thành, đại diện bác mẹ học sinh,… dự các hoạt động của trường trong “Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học”.

Một trong những nhân tố quan trọng trong tổ chức hoạt động là sự chủ động, sáng tạo của các nhà trường, tuy nhiên vẫn cần những nội dung sinh hoạt căn bản cần các trường tụ hội thực hành, thưa ông?

- Về nội dung sinh hoạt, các trường tùy theo điều kiện và đối tượng học trò để tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học” bảo đảm mục đích và yêu cầu, trong đó tụ họp vào một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, đón học sinh đầu cấp học; tổ chức các hoạt động làm quen với thầy cô giáo, với bạn bè, giao lưu kết nghĩa giữa học trò các lớp đầu cấp với nhau và với học trò các lớp trên; tạo điều kiện cho học sinh mới vào trường được bạn bè, thầy cô giáo, nhân viên nhà trường viện trợ thân thiện và hòa nhập chóng vánh vào môi trường học tập và đoàn luyện mới.

Thứ hai, tổ chức các hoạt động để học trò tìm hiểu về nhà trường (truyền thống nhà trường; tổ chức và bộ máy, cán bộ quản lý, xuân đường và viên chức nhà trường; các điều kiện về cơ sở vật chất, phòng học, phòng bộ môn, thiết bị học tập; chỉ dẫn học trò chăm nom và sử dụng các công trình phục vụ cho các hoạt động trong nhà trường như: Thư viện, phòng truyền thống, sân chơi, bãi tập, nhà thi đấu thể dục thể thao, nhà ăn, khu nội trú (nếu có), công trình nước và vệ sinh, bảo vệ môi trường, y phục, đồ dùng học tập và rèn luyện của học trò khi đến trường; …). Giúp học sinh nắm được điều lệ nhà trường; qui chế thi, rà soát, xếp loại học trò về học tập và rèn luyện; nội qui, quy định của nhà trường.

Thứ ba, giới thiệu để giúp học sinh làm quen với mục đích, đề nghị, chương trình học tập và giáo dục, phương pháp học tập và rèn luyện ở trường mới, lớp mới, môn học mới một cách hăng hái, chủ động; giới thiệu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo; khơi dậy trong các em sự yêu thích và hứng đối với môn học.

Chung cục, tổ chức cho học trò tìm hiểu về xây dựng phong cảnh sư phạm và môi trường thân thiện trong và ngoài nhà trường (xây dựng, giữ giàng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn; học tập và đoàn luyện có hiệu quả; đoàn luyện kỹ năng sống; các hoạt động vui chơi lành mạnh...); Ra quân gia tìm hiểu, coi ngó và phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa, cách mệnh ở địa phương.

Ông có lưu ý gì đối với các đơn vị trong việc khai triển thực hành hoạt động này?

- Các Sở, Phòng GD&ĐT chỉ đạo việc triển khai tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học” ở tất thảy các trường THCS, THPT và các cơ sở giáo dục trung học trên địa bàn. Tùy theo kế hoạch của mỗi trường, việc tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể đầu năm học” được tổ chức ngay sau khi học trò tựu trường.

Hiệu trưởng các trường THCS, THPT và các cơ sở giáo dục trung học xây dựng kế hoạch tổ chức “Tuần sinh hoạt tập thể đầu niên học” thích hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, đặc điểm của địa phương và đối tượng học sinh; quán triệt, cắt cử cụ thể cho các Phó Hiệu trưởng, kiền chủ nhiệm lớp, thầy bộ môn phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên tiên phong, Ban đại diện ba má học trò; tranh thủ sự ủng hộ của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, trận mạc, đoàn thể địa phương để tổ chức các hoạt động có hiệu quả.

Xin cảm ơn ông!

Hiếu Nguyễnthực hành


Báo cáo nhận chăm sóc công trình ghi công liệt sĩ trước 9/8

Song song, lập ít chung về công tác chỉ đạo, thực hiện, kết quả đạt được tại địa phương. Mỏng cần phân tích, đánh giá các kết quả đã đạt được, chỉ ra các thuận tiện, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai chủ trương trên và kiến nghị, đề xuất.

Báo cáo kết quả thực hiện tính đến thời khắc tháng 7/2013 gửi về Bộ GD&ĐT trước ngày 9/8/2013.

Những công việc nói trên được tiến hành để có cứ tổng kết đánh giá công tác coi ngó các công trình ghi công liệt sỹ trong toàn quốc và làm cơ sở bẩm Thủ tướng.

Trước đó, thực hành Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tướng về việc tăng cường chăm chút người có công với cách mạng, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh – Liệt sỹ, Bộ GD&ĐT và Bộ cần lao, Thương binh – tầng lớp đã thống nhất ban hành và tổ chức thực hành Chương trình số 652/CTr-BGDĐT-BLĐTBXH về việc kết hợp chăm sóc, tu tạo nghĩa trang liệt sỹ trong phạm vi toàn quốc. Đến nay, nhiều tỉnh, đô thị đã tổ chức thực hiện các nội dung của chương trình trên.

Lập Phương


Đưa GD đối phó với biến đổi khí hậu vào dạy TCCN

Chương trình có thời lượng 30 tiết, ứng với 2 đơn vị học trình. Đây là một trong các học phần chung tự chọn trong chương trình đào tạo TCCN. Chương trình học phần này được thực hiện từ năm học 2013 - 2014.

Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng trường và ngành học, các trường xây dựng bài giảng hạp với mục tiêu và nội dung cơ bản của học phần theo thông tư này nhằm đảm bảo kế hoạch đào tạo của nhà trường song song tạo điều kiện tiện lợi cho bố và học sinh trong quá trình khai triển thực hành.

Lập Phương


SGK điện tử: Cuộc đua hấp dẫn nhưng đầy rủi ro

Sách giáo khoa điện tử được tung ra thị trường từ cuối tháng 6-2013 trong bối cảnh nhiều “đại gia” khác cũng đang xúc tiến việc số hóa sách giáo khoa (SGK). Liệu đây có là cuộc đua quá mạo hiểm đối với Công ty CP Sách điện tử (EDC)?

Các đại gia vào cuộc

Từ cuối năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký hiệp tác cùng Viettel khai triển đầu tư thiết bị, số hóa SGK và các tài liệu đào tạo. Đến tháng 6-2012, NXB Giáo dục Việt Nam đã ký hiệp đồng với Công ty CP Tiến bộ Quốc tế (AIC) và Công ty VTC Online về việc hợp tác xuất bản sách giáo dục điện tử từ mẫu giáo đến cấp THPT. Cũng trong năm 2012, FPT cho biết đơn vị này đang theo đuổi một loạt chương trình về số hóa SGK và đang trong quá trình thương lượng với các đơn vị nắm giữ bản quyền các đầu sách.


Classbook có thể không chỉ hướng tới thị trường Việt Nam mà còn tới cả các nhà nước khác trong khu vực

Đến cuối tháng 6-2013, EDC - một trong số những đơn vị thành viên của NXB Giáo dục là doanh nghiệp đầu tiên ban bố và ra mắt sản phẩm SGK điện tử tại Việt Nam sau hơn nửa năm thí điểm tại nhiều trường trên cả nước.

Thời cơ mở rộng thị trường

Sau 1 tháng tung classbook ra thị trường, hôm 26-7, EDC đã có buổi ký kết Biên bản ghi nhớ với Công ty Intel Việt Nam. Theo đó, Intel Việt Nam sẽ hiệp tác, hỗ trợ cùng EDC triển khai nền móng công nghệ sách giáo khoa điện tử Classbook trên các thiết bị sử dụng bộ vi xử lý của Intel. Nhờ đó, sản phẩm Classbook không chỉ hướng tới thị trường giáo dục Việt Nam mà còn có thể tới cả các nhà nước khác trong khu vực.

Theo biên bản ghi nhớ trên, Intel và EDC sẽ có những hoạt động kết hợp nghiên cứu, phát triển các giải pháp công nghệ thông báo áp dụng cho môi trường lớp và trường mai sau cũng như truyền bá và thúc đẩy việc vận dụng các sản phẩm và giải pháp của Intel vào hệ thống giáo dục tại Việt Nam cũng như quốc gia khác. Ông Phạm Thúc Trương Lương, Giám đốc Công ty EDC, cho biết: “Intel và Công ty EDC thuộc NXB Giáo dục Việt Nam có chung một đích là giới thiệu các phương pháp dạy và học mới bằng công nghệ thông báo vào trường. Mẫu máy tính bảng toàn cầu dành cho giáo dục của Intel có nhiều điểm ưu việt cả về phần cứng và các ứng dụng cài đặt sẵn. Chúng tôi mong muốn hợp tác với Intel để bản địa hóa thiết bị này, biến nó trở thành một dụng cụ hỗ trợ học tập đắc lực cho các em học sinh Việt Nam”.

Rủi ro cho người đi đầu

Dưới góc nhìn của một nhà tài chính, ông Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chứng khoán Thiên Việt, khẳng định: “Doanh nghiệp đi đầu bao giờ cũng chịu thiệt thòi, nhất là về mặt tài chính vì thời gian đầu số lượng sản phẩm bán ra còn ít, giá thành thắt phải đẩy lên cao mà vẫn còn phải mất nhiều năm mới bù lỗ được. Đây là một bài toán kinh tế đơn thuần mà ai làm kinh doanh cũng đều hiểu”.

Ông Trần Lương Sơn, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Phần mềm Việt (Vietsoftware), thì cho rằng những người đi đầu thường sẽ phải chịu những rủi ro . Hiện phía nhà nước chưa có chính sách gì cụ thể để tương trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, giả như nhà nước đã hợp nhất đề ra chủ trương và tổ chức đấu thầu thì chưa chắc sản phẩm đi đầu đã là sản phẩm được tuyển lựa.

Nhận định về những Cơ hội và thách thức phải đối mặt khi là doanh nghiệp đầu tiên đưa Classbook ra thị trường, ông Lương nói: “Classbook có lợi thế của sản phẩm SGK điện tử đầu tiên xuất hiện trên thị trường Việt Nam nhưng cũng do vậy phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức để giới thiệu và tiếp cận được với thị trường và người sử dụng.