Theo ông Lý Quang Nhân kể lại, khoảng năm 1968, có một đơn vị lính về đóng quân tại địa phương và tạm cư tại nhà mình để hoạt động. Trước khi xuất phát đi B, một người lính cùng đơn vị với liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng đã giao lại cuốn sổ cho ông Nhân lúc đó mới 11 tuổi. Do chiến tranh, ông mất hẳn giao thông với người chiến sỹ đã trao lại cuốn sổ cho mình. Cuốn sổ được tác giả ghi chép lại nhiều câu châm ngôn về cuộc sống và những bài thơ tự sáng tác. Ông Nhân vẫn luôn giữ cuốn nhật ký bên mình và đã thuộc nhiều đoạn, nhiều câu và cho bạn bè chuyền tay nhau cùng đọc. Mở màn, liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng viết những dòng đầy nhiệt huyết, hào hùng: "Người chiến sỹ cách mệnh chẳng khác nào người vượt đại dương trong mưa bão. Ai chịu đựng, không hề xuýt xoa run rẩy mới tới được chân mây nắng ấm. Nếu để đến khi áo đủ cơm đầy, hoa cười chim hót, lúc đấy là lúc cách mạng thành công, mới ra tay tung hoành chẳng khác nào én nhạn chiều đông muốn bay mà không cất cánh nổi". Cuốn nhật ký đã được thanh niên xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình chuyền tay nhau rồi biên chép lại. Cho tới năm 1980, do có quá nhiều người mượn chuyền tay nhau đọc, cuốn nhật ký đã bị thất lạc. Ông Nhân khôn xiết day dứt, đã kiên tâm bằng mọi cách phải tìm lại bằng được. Sau nhiều lần hỏi thăm bạn bè, ông phát hiện quyển nhật ký bị bỏ quên trong hộp đàn của người bạn đã mất. Điều thật lạ, chiếc hộp đàn bị mối ăn nhưng cuốn sổ vẫn còn nguyên vẹn.
Qua năm tháng, những nét chữ của cuốn nhật ký không tránh khỏi phai mờ, giấy đã mục nát. Mỗi dòng văn, dòng thơ được tác giả viết rất nắn nót. Đọc nội dung ghi trong cuốn sổ, ông Nhân phán đoán liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng quê ở Hải Phòng, bởi trong một bài thơ của anh có câu: "Quê mình Nam Triệu, Đồ Sơn". Dựa vào thông báo ít oi đó, ông Nhân đã viết thư gửi tới Sở LĐ-TB&XH Hải Phòng, Tỉnh đội Quảng Bình, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Quảng Bình và được biết, mộ phần của liệt sĩ đã được chuyển về quê nhưng không rõ ở đâu. Tra hỏi thông tin trên mạng Internet, ông Nhân đã gửi một bức thư điện tử đến các cơ quan chức năng và trọng tâm MARIN, nội dung: "Lưu Mạnh Hùng là một đội viên cách mạng kiên cường, bất khuất, vững vàng lý tưởng, một trí thức tuấn kiệt và là người có trái tim nồng nàn, yêu đời, yêu người. Những lời anh viết, nếu ai đã thoáng qua thì chẳng thể không tò mò, không thể không đọc và bị cuốn hút ngay bởi những tâm tư, suy nghĩ nặng lòng với nước, với quê hương, gia đình, với tình người, tình đời..., Những trằn trọc của một chàng trai trẻ đang sục sôi nhựa sống". Bằng các biện pháp nghiệp vụ, trọng tâm MARIN đã gieo rắc dữ liệu và rà thông báo về liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng. Anh đã hy sinh ngày 26-5-1968 tại Quảng Bình. Trọng điểm tiếp chuyện liên tưởng với Sở LĐ-TB&XH Hải Phòng và được biết: Em trai của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng là ông Lưu Mạnh Dũng, hiện đang sống tại số nhà 11/75 đường Cát Bi, phường Cát Bi, quận Hải An, Hải Phòng. Ngày 22/7, sau đúng 45 năm, cuốn nhật ký đã trở về quê hương. Buổi trao lại cuốn nhật ký của liệt sỹ cho gia đình đã diễn ra trong không khí trọng thể và khôn cùng xúc động. Nhận lại kỷ vật kí từ tay ông Nhân, gia đình liệt sĩ Hùng vô cùng cảm động. Ông Lưu Văn Sắc (bố liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng) năm nay 85 tuổi đã òa khóc vì xúc động khi nhận cuốn nhật ký của con trai. Ông Sắc nghẹn ngào cảm ơn ông Nhân cùng các cơ quan, đơn vị đã giúp gia đình tìm lại được di vật của con trai. Các thành viên trong gia đình cũng khôn cùng ngỡ ngàng, xúc động bởi đây chính là di vật duy nhất còn lại của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng. Được biết, sau khi liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng hy sinh, đơn vị cũng gửi một số kỷ vật của anh về gia đình.
Tuy nhiên, năm 1972, khi Mỹ ném bom B52 rải thảm miền Bắc, ngôi nhà bị đánh sập, và tuốt tuột đã bị phá hủy. Ông Lưu Văn Sắc cho biết: Mộ phần của liệt sĩ hiện vẫn chưa tìm được. Cuốn nhật ký này với ông hết sức quý giá... Phóng viên Báo CAND khôn xiết cảm động được cầm trên tay cuốn nhật ký của liệt sĩ Lưu Mạnh Hùng dày gần 80 trang, được viết cách đây trên 4 thập kỷ, vẫn những câu nói của các danh nhân trên thế giới, đặc biệt là Karl Marx, F. Engels, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vần thơ của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên và rất nhiều danh nhân bản hóa, các nhà văn, thi sĩ lớn. Đặc biệt trong đó là những tâm can miêu tả trách nhiệm lớn lao của những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; những tình cảm da diết về tình bạn, tình yêu đôi lứa với một cảm xúc thực tâm hết mực... Người đọc bị suýt nữa bởi những tâm can, suy nghĩ nặng lòng với giang sơn, quê hương, gia đình, tình người và tình đời... |